Chapter 10
LISTEN TO CHAPTER 10: THE PATHWAY TO TRUTH
Download: Chapter 10
The Pathway to Truth
Đường Đến Lẽ Thật
Good News from John
Tin Lành Theo Giăng
Introduction
Dẫn Nhập
As you progress through each chapter of this book, you can see a pattern of giving you the information needed to prepare you for a career; developing purpose in life, entering the job market, and sustaining your career. Then you came to chapters 8 and 9, and you began to imagine yourself as a leader, a decision maker, and a person who is to make things happen.Did that challenge you in any way?
Khi đọc qua qua từng chương sách này, bạn sẽ thấy một khuôn mẫu thông tin cần thiết để chuẩn bị cho một sự nghiệp; phát triển mục đích sống, bước vào thị trường việc làm và duy trì sự nghiệp của bạn. Khi đọc đến chương 8 và 9, bạn sẽ bắt đầu hình dung mình là một nhà lãnh đạo, một người ra quyết định, và một người hành động. Điều này có thách thức bạn ở mặt nào không?
Perhaps the thought of being a leader is all new to you. For most people, the natural tendency will be to reject the thought that you could become a leader. We say things like this to ourselves because we tend to think we can never be a leader like some of the famous people in the world. But, all leaders lead in different ways. And that is natural. We just need to find our leadership style and let it work for us and be comfortable with the fact it will be different that the style of most everyone else.
Có lẽ, suy nghĩ làm lãnh đạo rất mới với bạn. Đối với đa số, khuynh hướng tự nhiên là từ chối suy nghĩ có thể trở thành một nhà lãnh đạo. Chúng ta có thể nói thế này với chính chúng ta vì chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng chúng ta không bao giờ là nhà lãnh đạo như một số người nổi tiếng trên thế giới. Nhưng mọi nhà lãnh đạo đều lãnh đạo theo những phong cách khác nhau và đây là điều tự nhiên. Chúng ta cần tìm ra phong cách lãnh đạo tốt nhất cho chúng ta và đừng khó chịu khi phong cách lãnh đạo của chúng ta khác với mọi người khác.
Now to implement your vision and make change in your community and world, it will require you to become a leader. It is something you can do and quite frankly something that will be beneficial to you in the future even if you decide not to pursue a career. It will be very helpful to you in your family life as well as community life. There are many different attributes of leadership that you can study and learn.
Bây giờ để thực hiện tầm nhìn của bạn và để thay đổi cộng động và thế giới, thì bạn phải trở thành một nhà lãnh đạo. Đây là điều bạn có thể làm và thực sự có ích cho bạn trong tương lai cho dù bạn quyết định không theo đuổi một sự nghiệp. Nó vẫn hữu ích cho bạn trong gia đình cũng như trong đời sống cộng đồng. Có nhiều phẩm chất lãnh đạo khác nhau bạn cần học hành.
But, there is one common quality of leadership that is needed by each leader no matter what style of leader you become. It is the attribute of getting the people you lead to trust you. Trust is absolutely needed in order to keep the people who look to you as their leader confident in following you on a continual basis. Trust is developed when you are consistently saying the same thing about various situations to everyone you encounter. If you answer questions about the same situation differently to different people, eventually it will cause people to not trust you. Your leadership will not be successful. But, if you decide to always be truthful in your answers to questions to everyone, then people will respect you even though they may not like your answer.
Nhưng có một phẩm chất chung của lãnh đạo rất cần thiết cho mỗi nhà lãnh đạo bất kể bạn trở thành nhà lãnh đạo theo phong cách nào, đó là phẩm chất dẫn dắt người khác tin cậy bạn. Lòng tin tuyệt đối cần thiết để những người xem bạn là lãnh đạo tự tin tiếp tục theo bạn. Lòng tin được xây dựng khi bạn nhất quán nói điều giống nhau ở những tình huống khác nhau với những người bạn gặp phải. Nếu bạn trả lời khác nhau cho cùng một tình huống đối với những người khác nhau, thì cuối cùng sẽ khiến người ta không tin cậy bạn. Chức lãnh đạo của bạn sẽ không thành công. Nhưng nếu bạn luôn thành thật trong cách trả lời của mình với mọi người, thì người ta sẽ tôn trọng bạn cho dù họ không thích cách trả lời của bạn.
This chapter entitled the “The Pathway to Truth” was written by a student named John. He wrote it nearly 2000 years ago after he observed the life, the teachings, the relationships, and the miracles of Jesus. It all takes place in a region of the world called the Middle East. Jesus was of the Jewish race living in the nation of Israel. He never traveled more than 200 miles from the town of his birth. He began his career at age 30 and was only able to work for a little more than three years.
Chương này có tựa “Con Đường đến Lẽ Thật” do một sinh viên có tên Giăng viết. Ông viết nó cách đây gần 2000 năm sau khi ông đã quan sát đời sống, sự giảng dạy, các mối quan hệ và những phép lạ của Chúa Jesus. Tất cả đều diễn ra tại một vùng đất của thế giới, gọi là Trung Đông. Chúa Jesus thuộc người Do Thái sống tại nước Y-sơ-ra-ên. Ngài chưa bao giờ đi xa hơn 200 dặm khỏi thị trấn quê nhà của Ngài. Ngài bắt đầu sự nghiệp của Ngài ở tuổi 30 và chỉ có thể làm việc hơn ba năm.
The title for this chapter implies two things. The word “Truth” was chosen because the chapter was written for the express purpose of leading everyone in the world to the true life. Secondly, the word “Pathway” was chosen because it implies a narrow road rather than a wide highway. A narrow road is harder to navigate, and it will stay narrow as long as people choose not to travel on it. Jesus talked many times about the narrow passage way and the difficult road that leads to true life. Just like the fact that a narrow road is never widened today because of little traffic, so it is with the road of life today. Since most people in the world decide to take an easier road, they never find the narrow road.
Tựa của chương này có hai điều ẩn ý. Từ “Lẽ Thật” được lựa chọn vì chương này được viết để bày tỏ mục đích dẫn đưa mọi người trong thế giới đến đời sống thật. Thứ hai, từ “Con Đường” được chọn vì nó hàm ý một con đường hẹp hơn là một con đường rộng. Con đường hẹp thì khó lèo lái hơn, và chừng nào người ta chọn không đi con đường hẹp này, thì nó sẽ vẫn hẹp chừng đó. Chúa Jesus nói nhiều lần về lối hẹp này và con đường khó khăn thì dẫn đến sự sống thật. Giống như con đường hẹp không bao giờ mở rộng ra ngày nay vì ít giao thông, thì con đường sự sống ngày nay cũng như vậy. Vì đa số người trong thế gian quyết định đi con đường dễ dàng hơn, nên họ không bao giờ tìm được con đường hẹp.
In this chapter you will see the many experiences of Jesus as he meets with individuals, speaks to huge crowds, teaches his students (disciples), and debates with the religious leaders of his day. Some people worship him, some reject him, and others are puzzled, while some just remain silent.
Trong chương này, bạn sẽ thấy nhiều kinh nghiệm của Chúa Jesus khi Ngài tiếp xúc với nhiều cá nhân, nói chuyện với nhiều đám đông, dạy học trò (môn đồ) của Ngài và tranh luận với các bậc lãnh đạo tôn giáo trong thời của Ngài. Một số thờ phượng Ngài, một số khước từ Ngài, một số khác ngạc nhiên trong khi một số khác lại giữ im lặng.
What I hope you will see as you read this chapter is that in spite of the fact that Jesus was rejected by the leaders of the world at that time, he remains the most successful person ever. His positive influence on the lives of people over the past 2000 years is unequaled. He was able to show us the true life, and wants each of us to realize that by always telling the truth, you will discover the true life of abundant living.
Điều tôi hy vọng bạn sẽ thấy được khi đọc chương này là thế này: Bất kể sự thật Chúa Jesus bị những bậc lãnh đạo của thế giới vào thời đó khước từ, Ngài vẫn là một người thành công nhất trong mọi thời đại. Sự ảnh hưởng tích cực của Ngài trên đời sống con người hơn 2000 năm qua thì không chi sánh bằng. Ngài có khả năng chỉ cho chúng ta sự sống thật và muốn mỗi chúng ta nhận biết rằng bạn sẽ khám phá sự sống thật dư dật nếu luôn luôn nói sự thật.
The Word Became Man
In the beginning was the Word, and the Word was with God, and the Word was fully God. The Word was with God in the beginning. All things were created by him, and apart from him not one thing was created that has been created. In him was life, and the life was the light of mankind. And the light shines on in the darkness, but the darkness has not mastered it. A man came, sent from God, whose name was John. He came as a witness to testify about the light, so that everyone might believe through him. He himself was not the light, but he came to testify about the light. The true light, who gives light to everyone, was coming into the world. He was in the world, and the world was created by him, but the world did not recognize him. He came to what was his own, but his own people did not receive him. But to all who have received him – those who believe in his name – he has given the right to become God’s children – children not born by human parents or by human desire or a husband’s decision, but by God. Now the Word became flesh and took up residence among us. We saw his glory – the glory of the one and only, full of grace and truth, who came from the Father. John testified about him and shouted out, “This one was the one about whom I said, ‘He who comes after me is greater than I am, because he existed before me.’” For we have all received from his fullness one gracious gift after another. For the law was given through Moses, but grace and truth came about through Jesus Christ. No one has ever seen God. The only one, himself God, who is in closest fellowship with the Father, has made God known.
Ngôi Lời Trở Nên Người
Trước khi sáng tạo vũ trụ đã có Ngôi Lời. Ngôi Lời ở cùng Đức Chúa Trời và Ngôi Lời là Đức Chúa Trời. Ngay từ ban đầu Ngài đã ở cùng Đức Chúa Trời. Tất cả đều được Ngài sáng tạo. Không gì hiện hữu mà không do Ngài. Trong Ngài có nguồn sự sống và sự sống là ánh sáng cho nhân loại. Ánh sáng tỏa ra trong bóng tối và bóng tối không khống chế được ánh sáng. Có một người Đức Chúa Trời sai đến, tên là Giăng. Ông đến làm nhân chứng, là nhân chứng cho ánh sáng, để nhờ ông mọi người có thể tin. Chính Giăng không phải là ánh sáng, nhưng ông đến để làm chứng cho ánh sáng. Ánh sáng thật này đã đến trần gian soi sáng mọi người. Ngôi Lời ở trong thế giới do chính Ngài sáng tạo nhưng thế giới không nhận biết Ngài. Chúa đã đến trong nước Ngài mà dân Ngài không nghênh tiếp, nhưng những ai tiếp nhận Ngài, nghĩa là tin danh Ngài, thì Ngài ban cho quyền trở nên con Đức Chúa Trời. Đây là những người không sinh ra theo huyết thống, ý phàm hay ý người, nhưng do chính Đức Chúa Trời sinh thành. Ngôi Lời đã giáng thế làm người, cư ngụ giữa chúng ta, tràn đầy ân sủng và chân lý. Chúng tôi đã tận mắt chiêm ngưỡng vinh quang Ngài, là vinh quang của Con Một đến từ Cha. Khi làm chứng về Ngài, Giăng long trọng tuyên bố: “Đây là Đấng tôi vẫn nói rằng: ‘Ngài đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi, vì Ngài hiện hữu trước tôi.’” Nhờ sự phong phú của Ngài, chúng ta hết thảy đều được hết ân phúc nầy đến ân phúc khác. Thật vậy, Kinh Luật được ban hành qua Môi-se, còn ân sủng và chân lý được hình thành qua Chúa Cứu Thế Giê-su. Chưa ai trông thấy Đức Chúa Trời bao giờ, chỉ Con Một Đức Chúa Trời ở tận trong lòng Cha mới giải bày được Đức Chúa Trời cho chúng ta.
The Testimony of John the Baptist
Now this was John’s testimony when the Jewish leaders sent priests and Levites from Jerusalem to ask him, “Who are you?” He confessed – he did not deny but confessed – “I am not the Christ!” So they asked him, “Then who are you? Are you Elijah?” He said, “I am not!” “Are you the Prophet?” He answered, “No!” Then they said to him, “Who are you? Tell us so that we can give an answer to those who sent us. What do you say about yourself?” John said, “I am the voice of one shouting in the wilderness, ‘Make straight the way for the Lord,’ as Isaiah the prophet said.” (Now they had been sent from the Pharisees.) So they asked John, “Why then are you baptizing if you are not the Christ, nor Elijah, nor the Prophet?” John answered them, “I baptize with water. Among you stands one whom you do not recognize, who is coming after me. I am not worthy to untie the strap of his sandal!” These things happened in Bethany across the Jordan River where John was baptizing.
Lời Chứng Của Giăng Báp‑tít
Sau đây là lời chứng của Giăng khi những người Do Thái ở thành Giê-ru-sa-lem phái các thầy tế lễ và người Lê-vi đến hỏi: “Ông là ai?” Giăng tuyên bố mà không e ngại, ông tuyên bố rằng: “Tôi không phải là Chúa Cứu Thế.” Họ hỏi: “Vậy thì ông là ai? Là Ê-li phải không?” Giăng bảo: “Không phải!” “Ông có phải là vị tiên tri của Chúa không?” Giăng đáp: “Không phải!” Vậy họ hỏi tiếp: “Ông là ai để chúng tôi thưa lại với những người sai chúng tôi. Ông tự xưng mình là ai?” Giăng đáp: “Ta là tiếng vang, kêu lên nơi đồng hoang. Đắp thẳng con đường Chúa.” Theo lời tiên tri I-sa. Nhóm người được cử đến thuộc phái Pha-ri-si. Họ chất vấn Giăng: “Nếu ông không phải là Chúa Cứu Thế, không phải là Ê-li, cũng không phải là vị tiên tri của Chúa, tại sao ông lại làm phép báp-tem?” Giăng đáp: “Tôi chỉ làm phép báp-tem bằng nước, nhưng ngay giữa vòng các ông hiện có một Người mà các ông không nhận ra. Người ấy đến sau tôi, nhưng tôi không đáng tháo quai dép Người!” Những việc nầy xảy ra ở Bê-tha-ni, bên kia bờ sông Giô-đanh, nơi Giăng đang làm phép báp-tem.
The Lamb of God
On the next day John saw Jesus coming toward him and said, “Look, the Lamb of God who takes away the sin of the world! This is the one about whom I said, ‘After me comes a man who is greater than I am, because he existed before me.’ I did not recognize him, but I came baptizing with water so that he could be revealed to Israel.” Then John testified, “I saw the Spirit descending like a dove from heaven, and it remained on him. And I did not recognize him, but the one who sent me to baptize with water said to me, ‘The one on whom you see the Spirit descending and remaining – this is the one who baptizes with the Holy Spirit.’ I have both seen and testified that this man is the Chosen One of God.”
Chiên Con Của Đức Chúa Trời
Ngày hôm sau, khi thấy Đức Giê-su đến với mình, Giăng nói: “Đây là Chiên Con của Đức Chúa Trời, Đấng xóa tội lỗi cho nhân loại! Đây là Người mà tôi đã nói: Ngài đến sau tôi nhưng cao trọng hơn tôi vì Ngài hiện hữu trước tôi. Phần tôi, tôi vốn không biết Ngài, nhưng để cho Y-sơ-ra-ên biết Ngài là ai, tôi đã đến làm phép báp-tem bằng nước.” Rồi Giăng dẫn chứng rằng: “Tôi đã thấy Thánh Linh từ trời giáng xuống trong dạng bồ câu, đậu trên Ngài. Phần tôi, tôi vốn không biết Ngài là ai, nhưng Đấng sai tôi đến làm phép báp-tem bằng nước có phán dặn tôi: Hễ con thấy Thánh Linh giáng xuống đậu trên ai, đó chính là Đấng sẽ làm phép báp-tem bằng Thánh Linh. Tôi đã chứng kiến, nên tôi xác nhận, đây chính là Con Đức Chúa Trời.”
The First Disciples
Again the next day John was standing there with two of his disciples. Gazing at Jesus as he walked by, he said, “Look, the Lamb of God!” When John’s two disciples heard him say this, they followed Jesus. Jesus turned around and saw them following and said to them, “What do you want?” So they said to him, “Rabbi” (which is translated Teacher), “where are you staying?” Jesus answered, “Come and you will see.” So they came and saw where he was staying, and they stayed with him that day. Now it was about four o’clock in the afternoon. Andrew, the brother of Simon Peter, was one of the two disciples who heard what John said and followed Jesus. He first found his own brother Simon and told him, “We have found the Messiah!” (which is translated Christ). Andrew brought Simon to Jesus. Jesus looked at him and said, “You are Simon, the son of John. You will be called Cephas” (which is translated Peter).
Các Môn Đệ Đầu Tiên
Hôm sau, khi Giăng đang đứng với hai môn đệ, ông nhìn Đức Giê-su đi qua và nói: “Đây là Chiên Con của Đức Chúa Trời!” Hai môn đệ nghe vậy, liền đi theo Đức Giê-su. Thấy họ theo mình, Đức Giê-su quay lại hỏi: “Các anh tìm ai?” Họ thưa: “Ra-bi, nghĩa là ‘Thưa Thầy’, Thầy trọ ở đâu?” Ngài bảo: “Các anh hãy đến xem!” Lúc đó vào khoảng bốn giờ chiều. Vậy họ đến xem chỗ Ngài trọ và ở lại với Ngài suốt ngày hôm ấy. Một trong hai người đã nghe lời Giăng đi theo Ngài là An-rê, em của Si-môn Phê-rơ. Việc đầu tiên An-rê làm là đi tìm anh mình và nói: “Chúng em đã gặp được Đấng Mê-si-a, nghĩa là Chúa Cứu Thế.” An-rê đưa Si-môn đến gặp Đức Giê-su. Ngài nhìn Si-môn bảo: “Anh là Si-môn, con của Giăng, nhưng anh sẽ được gọi là Kê-pha,” dịch sang Hy Lạp: Phê-rơ nghĩa là đá.
The Calling of Philip and Nathanael
On the next day Jesus wanted to set out for Galilee. He found Philip and said to him, “Follow me.” (Now Philip was from Bethsaida, the town of Andrew and Peter.) Philip found Nathanael and told him, “We have found the one Moses wrote about in the law, and the prophets also wrote about – Jesus of Nazareth, the son of Joseph.” Nathanael replied, “Can anything good come out of Nazareth?” Philip replied, “Come and see.” Jesus saw Nathanael coming toward him and exclaimed, “Look, a true Israelite in whom there is no deceit!” Nathanael asked him, “How do you know me?” Jesus replied, “Before Philip called you, when you were under the fig tree, I saw you.” Nathanael answered him, “Rabbi, you are the Son of God; you are the king of Israel!” Jesus said to him, “Because I told you that I saw you under the fig tree, do you believe? You will see greater things than these.” He continued, “I tell all of you the solemn truth – you will see heaven opened and the angels of God ascending and descending on the Son of Man.”
Chúa Gọi Thêm Phi-líp Và Na-tha-na-ên
Qua ngày sau, Đức Giê-su quyết định lên miền Ga-li-lê. Gặp Phi-líp, Ngài bảo: “Anh hãy theo Ta!” Phi-líp quê ở Bết-sai-đa, đồng thành với An-rê và Phê-rơ. Phi-líp gặp Na-tha-na-ên, khoe: “Chúng tôi đã gặp Đấng mà Môi-se đã viết trong Kinh Luật, các tiên tri của Chúa cũng có ghi chép. Ngài là Đức Giê-su, con ông Giô-sép ở Na-xa-rét.” Na-tha-na-ên nói: “Có gì tốt ra từ Na-xa-rét đâu!” Phi-líp đáp: “Cứ đến mà xem!” Thấy Na-tha-na-ên đến cùng mình, Đức Giê-su nói về người rằng: “Đây mới thật là người Y-sơ-ra-ên, trong lòng không có gì gian dối!” Na-tha-na-ên hỏi: “Sao Thầy biết tôi?” Đức Giê-su đáp: “Trước khi Phi-líp gọi anh, Ta đã thấy anh dưới cây vả!” Na-tha-na-ên thưa: “Thưa Thầy, Thầy đúng là Con Đức Chúa Trời, Thầy là Vua Y-sơ-ra-ên!” Đức Giê-su hỏi lại: “Có phải vì Ta nói Ta thấy anh dưới cây vả mà anh tin không? Anh sẽ còn thấy nhiều việc lớn hơn nữa!” Rồi Ngài tuyên bố: “Các anh sẽ thấy bầu trời mở ra và thiên sứ của Đức Chúa Trời lên xuống trên Con Người!” 1
The Wedding at Cana
Now on the third day there was a wedding at Cana in Galilee. Jesus’ mother was there, and Jesus and his disciples were also invited to the wedding. When the wine ran out, Jesus’ mother said to him, “They have no wine left.” Jesus replied, “Woman, why are you saying this to me? My time has not yet come.” His mother told the servants, “Whatever he tells you, do it.” Now there were six stone water jars there for Jewish ceremonial washing, each holding twenty or thirty gallons. Jesus told the servants, “Fill the water jars with water.” So they filled them up to the very top. Then he told them, “Now draw some out and take it to the head steward,” and they did. When the head steward tasted the water that had been turned to wine, not knowing where it came from (though the servants who had drawn the water knew), he called the bridegroom and said to him, “Everyone serves the good wine first, and then the cheaper wine when the guests are drunk. You have kept the good wine until now!” Jesus did this as the first of his miraculous signs, in Cana of Galilee. In this way he revealed his glory, and his disciples believed in him.
Tiệc Cưới Tại Ca-na
Ba ngày sau, có một tiệc cưới ở Ca-na, miền Ga-li-lê. Mẹ Đức Giê-su có mặt tại đó. Đức Giê-su và các môn-đệ cũng được mời dự tiệc. Khi thiếu rượu, mẹ Đức Giê-su bảo Ngài: “Người ta hết rượu rồi!” Đức Giê-su nói: “Thưa mẹ, việc của Con có can hệ gì đến mẹ, giờ Con chưa đến!” Mẹ Ngài nói với những người hầu tiệc: “Người bảo sao hãy làm vậy!” Tại đó có sáu cái vại bằng đá, mỗi cái chứa khoảng tám mươi đến một trăm hai mươi lít nước, dùng cho tục lệ tẩy sạch của người Do Thái. Đức Giê-su bảo: “Hãy đổ nước đầy các vại nầy đi!” Họ đổ đầy tới miệng vại. Rồi Ngài tiếp: “Bây giờ hãy múc đem cho người quản tiệc.” Vậy họ mang đến cho ông ấy. Khi người quản tiệc nếm nước đã biến thành rượu, (chẳng biết rượu từ đâu đến, nhưng những người hầu tiệc đã múc nước thì biết rõ) ông gọi chú rể đến và bảo: “Người ta ai cũng đãi rượu ngon trước, còn rượu dở dành cho lúc khách đã say, riêng anh thì giữ rượu ngon cho đến bây giờ!” Thế là tại Ca-na, miền Ga-li-lê, Đức Giê-su thực hiện dấu lạ đầu tiên và bày tỏ vinh quang Ngài, nên các môn đệ tin Ngài.
Cleansing the Temple
After this he went down to Capernaum with his mother and brothers and his disciples, and they stayed there a few days. Now the Jewish feast of Passover was near, so Jesus went up to Jerusalem. He found in the temple courts those who were selling oxen and sheep and doves, and the money changers sitting at tables. So he made a whip of cords and drove them all out of the temple courts, with the sheep and the oxen. He scattered the coins of the money changers and overturned their tables. To those who sold the doves he said, “Take these things away from here! Do not make my Father’s house a marketplace!” His disciples remembered that it was written, “Zeal for your house will devour me.” So then the Jewish leaders responded, “What sign can you show us, since you are doing these things?” Jesus replied, “Destroy this temple and in three days I will raise it up again.” Then the Jewish leaders said to him, “This temple has been under construction for forty-six years, and are you going to raise it up in three days?” But Jesus was speaking about the temple of his body. So after he was raised from the dead, his disciples remembered that he had said this, and they believed the scripture and the saying that Jesus had spoken.
Dọn Sạch Đền Thờ
Sau đó, Chúa cùng với mẹ, các em và môn đệ xuống thành Ca-pha-na-um, nhưng chỉ ghé lại ít ngày thôi. Gần đến lễ Vượt Qua của người Do Thái, Đức Giê-su lên thành Giê-ru-sa-lem. Ngài thấy trong sân đền thờ người thì buôn bán bò, chiên, bồ câu; kẻ lại ngồi đổi bạc. Ngài bện dây roi, đánh đuổi tất cả ra khỏi đền thờ luôn với chiên bò. Ngài vứt tung tiền và lật đổ bàn ghế của người đổi bạc. Ngài truyền lệnh cho những người bán bồ câu: “Dẹp sạch những thứ nầy đi! Đừng biến nhà Cha Ta thành nơi buôn bán!” Môn đệ Ngài nhớ lời Kinh Thánh: “Nhiệt tình về nhà Chúa thiêu đốt tôi!” Còn người Do Thái vặn hỏi Ngài: “Ông có dấu lạ gì để chứng tỏ ông có quyền hành động như vậy?” Đức Giê-su trả lời: “Phá hủy thánh điện nầy đi rồi trong ba ngày Ta sẽ dựng lại!” Người Do Thái hỏi lại: “Người ta phải mất bốn mươi sáu năm để xây thánh điện này mà ông chỉ cần ba ngày để dựng lại sao?” Nhưng thánh điện Ngài nói đây là thân xác Ngài. Vì vậy, sau khi Ngài sống lại, các môn đệ mới nhớ ra là Ngài đã nói như vậy, nên họ tin Kinh Thánh và lời Đức Giê-su dạy.
Jesus Knows the Heart of Man
Now while Jesus was in Jerusalem at the feast of the Passover, many people believed in his name because they saw the miraculous signs he was doing. But Jesus would not entrust himself to them, because he knew all people. He did not need anyone to testify about man, for he knew what was in man.
Chúa Biết Lòng Người
Khi Đức Giê-su ở Giê-ru-sa-lem trong kỳ lễ Vượt Qua, nhiều người tin danh Ngài vì thấy những dấu lạ Ngài đã làm, nhưng Đức Giê-su không tin cậy họ vì Ngài biết tất cả mọi người. Không cần ai làm chứng về loài người vì Ngài biết rõ lòng dạ con người.
Conversation with Nicodemus
Now a certain man, a Pharisee named Nicodemus, who was a member of the Jewish ruling council, came to Jesus at night and said to him, “Rabbi, we know that you are a teacher who has come from God. For no one could perform the miraculous signs that you do unless God is with him.” Jesus replied, “I tell you the solemn truth, unless a person is born from above, he cannot see the kingdom of God.” Nicodemus said to him, “How can a man be born when he is old? He cannot enter his mother’s womb and be born a second time, can he?” Jesus answered, “I tell you the solemn truth, unless a person is born of water and spirit, he cannot enter the kingdom of God. What is born of the flesh is flesh, and what is born of the Spirit is spirit. Do not be amazed that I said to you, ‘You must all be born from above.’ The wind blows wherever it will, and you hear the sound it makes, but do not know where it comes from and where it is going. So it is with everyone who is born of the Spirit.” Nicodemus replied, “How can these things be?” Jesus answered, “Are you the teacher of Israel and yet you don’t understand these things? I tell you the solemn truth, we speak about what we know and testify about what we have seen, but you people do not accept our testimony. If I have told you people about earthly things and you don’t believe, how will you believe if I tell you about heavenly things? No one has ascended into heaven except the one who descended from heaven – the Son of Man. Just as Moses lifted up the serpent in the wilderness, so must the Son of Man be lifted up, so that everyone who believes in him may have eternal life.”For this is the way God loved the world: He gave his one and only Son, so that everyone who believes in him will not perish but have eternal life. For God did not send his Son into the world to condemn the world, but that the world should be saved through him. The one who believes in him is not condemned. The one who does not believe has been condemned already, because he has not believed in the name of the one and only Son of God. Now this is the basis for judging: that the light has come into the world and people loved the darkness rather than the light, because their deeds were evil. For everyone who does evil deeds hates the light and does not come to the light, so that their deeds will not be exposed. But the one who practices the truth comes to the light, so that it may be plainly evident that his deeds have been done in God.
Chúa Và Ni-cô-đem
Trong giới lãnh đạo Do Thái có một người tên là Ni-cô-đem, thuộc phái Pha-ri-si. Ban đêm, người nầy đến gặp Đức Giê-su và thưa với Ngài rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi biết Thầy là giáo sư từ Đức Chúa Trời đến, vì những dấu lạ Thầy làm nếu không có Đức Chúa Trời ở cùng thì không ai làm được.” Đức Giê-su đáp: “Thật vậy, Ta bảo ông, nếu một người chẳng sinh từ thiên thượng thì không thể thấy Nước Đức Chúa Trời!” Ni-cô-đem thưa: “Người đã già làm sao được sinh ra một lần nữa? Không lẽ lại trở vào lòng mẹ để được sinh ra lần thứ hai sao?” Đức Giê-su đáp: “Thật, Ta bảo ông, nếu không nhờ nước và Thánh Linh mà sinh ra, không một người nào được vào Nước Đức Chúa Trời! Thể xác sinh ra phần xác, Thánh Linh sinh hạ phần linh. Đừng ngạc nhiên khi Ta bảo ông cần phải được sinh lại từ thiên thượng. Gió muốn thổi đâu thì thổi, người nghe tiếng động nhưng không biết gió đến từ đâu và lại đi đâu. Người được Thánh Linh sinh ra cũng giống như vậy.” Ni-cô-đem thưa: “Việc đó làm sao được?” Đức Giê-su đáp: “Ông là bậc thầy của Y-sơ-ra-ên mà không biết những điều đó sao? Thật, Ta bảo ông: Điều gì chúng ta biết mới nói, thấy mới làm chứng; thế mà các ông vẫn không chấp nhận lời chứng của chúng ta. Ta nói những việc dưới đất, các ông còn chưa tin, huống chi những việc trên trời thì làm sao tin được? Chưa có ai từng lên trời, trừ ra Đấng từ trời xuống, tức là Con Người. Như Môi-se treo con rắn lên cao trong nơi đồng hoang thể nào thì Con Người cũng phải bị treo lên thể ấy, để tất cả những ai tin Ngài đều được sự sống vĩnh phúc. Vì Đức Chúa Trời yêu thương nhân loại, đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, để ai tin nhận Đấng ấy sẽ không bị hư mất nhưng được sự sống vĩnh phúc. Đức Chúa Trời cho Con Ngài xuống thế gian nào phải để kết án thế gian, nhưng để thế gian nhờ Đức Con mà được cứu. Ai tin Đức Con hẳn khỏi bị kết án, nhưng ai không tin thì đã bị lên án rồi vì chẳng chịu tin nhận Con Một của Đức Chúa Trời. Án lý buộc tội là thế nầy: Ánh sáng đã chiếu vào thế gian nhưng người đời yêu chuộng bóng tối hơn ánh sáng vì hành vi của họ là gian ác. Vì người làm ác thì ghét ánh sáng và không chịu đến cùng ánh sáng, sợ rằng hành vi của mình sẽ bị phơi bày ra. Còn người hành động theo chân lý thì đến cùng ánh sáng để cho thấy rằng những công việc mình đã làm là hiệp với Đức Chúa Trời.”
Further Testimony About Jesus by John the Baptist
After this, Jesus and his disciples came into Judean territory, and there he spent time with them and was baptizing. John was also baptizing at Aenon near Salim, because water was plentiful there, and people were coming to him and being baptized. (For John had not yet been thrown into prison.) Now a dispute came about between some of John’s disciples and a certain Jew concerning ceremonial washing. So they came to John and said to him, “Rabbi, the one who was with you on the other side of the Jordan River, about whom you testified – see, he is baptizing, and everyone is flocking to him!” John replied, “No one can receive anything unless it has been given to him from heaven. You yourselves can testify that I said, ‘I am not the Christ,’ but rather, ‘I have been sent before him.’ The one who has the bride is the bridegroom. The friend of the bridegroom, who stands by and listens for him, rejoices greatly when he hears the bridegroom’s voice. This then is my joy, and it is complete. He must become more important while I become less important.”
Chúa Và Giăng Báp-tít
Sau đó, Đức Giê-su và các môn đệ đến vùng đất Giu-đê. Ngài cùng họ ở lại đó và làm phép báp-tem. Giăng cũng đang làm phép báp-tem tại Ê-nôn, gần Xa-lim, vì ở đó có nhiều nước. Người ta kéo nhau đến chịu phép báp-tem. Bấy giờ Giăng chưa bị bắt giam. Một cuộc tranh luận xảy ra giữa các môn đệ của Giăng với một người Do Thái về nghi lễ tinh sạch. Họ đến thưa với Giăng: “Thưa thầy, Người đã đến với thầy bên kia sông Giô-đanh mà thầy đề cao, hiện đang làm phép báp-tem và thiên hạ kéo nhau đến với Người.” Giăng đáp: “Trời không cho thì chẳng ai lãnh được gì cả! Ta đã nói, có các anh làm chứng, ta không phải là Chúa Cứu Thế nhưng chỉ là người được sai đến trước Ngài. Ai cưới vợ mới là chàng rể. Bạn của chàng rể chỉ đứng nghe ngóng và khi nghe được tiếng chàng rể thì hớn hở vui mừng. Chính vì thế mà ta mãn nguyện. Ngài phải được tôn cao, còn ta phải hạ xuống.
The One Who Comes from Above
The one who comes from above is superior to all. The one who is from the earth belongs to the earth and speaks about earthly things. The one who comes from heaven is superior to all. He testifies about what he has seen and heard, but no one accepts his testimony. The one who has accepted his testimony has confirmed clearly that God is truthful. For the one whom God has sent speaks the words of God, for he does not give the Spirit sparingly. The Father loves the Son and has placed all things under his authority. The one who believes in the Son has eternal life. The one who rejects the Son will not see life, but God’s wrath remains on him.
Đấng Đến Từ Thiên Đàng
Đấng đến từ trên cao trổi hơn mọi người, còn kẻ từ đất mà ra thuộc về đất và chỉ nói được chuyện trần gian. Đấng từ trời xuống cao trọng hơn mọi người. Thấy gì, nghe gì Ngài đều làm chứng, mà không ai chịu nhận lời chứng của Ngài. Nhưng hễ ai tiếp nhận lời chứng của Ngài, thì người ấy đã xác nhận rằng Đức Chúa Trời là chân thật. Vì Đấng được Đức Chúa Trời sai đến thì truyền rao lời của Đức Chúa Trời và được Ngài ban Thánh Linh vô hạn. Cha yêu Con và đã trao mọi sự vào tay Con. Ai tin Con thì được sự sống vĩnh phúc; ai không chịu vâng phục Con thì chẳng được sự sống đâu, nhưng cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời vẫn còn trên người đó!”
Conversation with a Samaritan Woman
Now when Jesus knew that the Pharisees had heard that he was winning and baptizing more disciples than John (although Jesus himself was not baptizing, but his disciples were), he left Judea and set out once more for Galilee. But he had to pass through Samaria. Now he came to a Samaritan town called Sychar, near the plot of land that Jacob had given to his son Joseph. Jacob’s well was there, so Jesus, since he was tired from the journey, sat right down beside the well. It was about noon. A Samaritan woman came to draw water. Jesus said to her, “Give me some water to drink.” (For his disciples had gone off into the town to buy supplies.) So the Samaritan woman said to him, “How can you – a Jew – ask me, a Samaritan woman, for water to drink?” (For Jews use nothing in common with Samaritans.) Jesus answered her, “If you had known the gift of God and who it is who said to you, ‘Give me some water to drink,’ you would have asked him, and he would have given you living water.” “Sir,” the woman said to him, “you have no bucket and the well is deep; where then do you get this living water? Surely you’re not greater than our ancestor Jacob, are you? For he gave us this well and drank from it himself, along with his sons and his livestock.” Jesus replied, “Everyone who drinks some of this water will be thirsty again. But whoever drinks some of the water that I will give him will never be thirsty again, but the water that I will give him will become in him a fountain of water springing up to eternal life.” The woman said to him, “Sir, give me this water, so that I will not be thirsty or have to come here to draw water.” He said to her, “Go call your husband and come back here.” The woman replied, “I have no husband.” Jesus said to her, “Right you are when you said, ‘I have no husband,’ for you have had five husbands, and the man you are living with now is not your husband. This you said truthfully!” The woman said to him, “Sir, I see that you are a prophet. Our fathers worshiped on this mountain, and you people say that the place where people must worship is in Jerusalem.” Jesus said to her, “Believe me, woman, a time is coming when you will worship the Father neither on this mountain nor in Jerusalem. You people worship what you do not know. We worship what we know, because salvation is from the Jews. But a time is coming – and now is here – when the true worshipers will worship the Father in spirit and truth, for the Father seeks such people to be his worshipers. God is spirit, and the people who worship him must worship in spirit and truth.” The woman said to him, “I know that Messiah is coming” (the one called Christ); “whenever he comes, he will tell us everything.” Jesus said to her, “I, the one speaking to you, am he.”Now at that very moment his disciples came back. They were shocked because he was speaking with a woman. However, no one said, “What do you want?” or “Why are you speaking with her?” Then the woman left her water jar, went off into the town and said to the people, “Come, see a man who told me everything I ever did. Surely he can’t be the Messiah, can he?” So they left the town and began coming to him. Meanwhile the disciples were urging him, “Rabbi, eat something.” But he said to them, “I have food to eat that you know nothing about.” So the disciples began to say to one another, “No one brought him anything to eat, did they?” Jesus said to them, “My food is to do the will of the one who sent me and to complete his work. Don’t you say, ‘There are four more months and then comes the harvest?’ I tell you, look up and see that the fields are already white for harvest! The one who reaps receives pay and gathers fruit for eternal life, so that the one who sows and the one who reaps can rejoice together. For in this instance the saying is true, ‘One sows and another reaps.’ I sent you to reap what you did not work for; others have labored and you have entered into their labor.”Now many Samaritans from that town believed in him because of the report of the woman who testified, “He told me everything I ever did.” So when the Samaritans came to him, they began asking him to stay with them. He stayed there two days, and because of his word many more believed. They said to the woman, “No longer do we believe because of your words,for we have heard for ourselves, and we know that this one really is the Savior of the world.”
Đức Giê-su Và Người Thiếu Phụ Sa-ma-ri
Thế rồi, Đức Giê-su rời miền Giu-đê trở về Ga-li-lê, vì biết rằng người Pha-ri-si có nghe đồn Ngài đã làm phép báp-tem và thu phục được nhiều người hơn Giăng. Thật ra, chính Đức Giê-su không làm phép báp-tem mà là các môn đệ của Ngài. Ngài thấy cần phải đi con đường băng qua Sa-ma-ri. Vậy, Ngài đến một thị trấn trong miền Sa-ma-ri, tên là Si-kha, gần thửa đất mà xưa Gia-cốp đã cho con là Giô-sép. Tại đó có cái giếng của Gia-cốp. Vì đi đường mệt mỏi nên Đức Giê-su ngồi nghỉ bên giếng. Lúc đó, khoảng giữa trưa. Một thiếu phụ Sa-ma-ri ra múc nước. Đức Giê-su bảo: “Cho ta xin một chút nước uống!” Lúc ấy các môn đệ Ngài đã vào thành phố mua thức ăn. Thiếu phụ Sa-ma-ri đáp: “Ông là người Do Thái, tôi là đàn bà Sa-ma-ri, sao ông lại xin tôi nước uống?” Vì người Do Thái không động chạm đến những gì người Sa-ma-ri dùng. Đức Giê-su đáp: “Nếu chị biết tặng phẩm Trời ban và biết Người xin chị nước uống là ai, chắc chị sẽ xin Người và Người sẽ cho chị nước trường sinh!” Thiếu phụ tiếp lời: “Thưa ông, gàu ông không có mà giếng lại sâu, làm sao ông múc được nước trường sinh đó? Chẳng lẽ ông hơn cả tổ phụ Gia-cốp chúng tôi sao? Người đã để lại giếng nầy cho chúng tôi, chính người, con cháu và đàn gia súc đều đã uống giếng nầy.” Đức Giê-su đáp: “Ai uống nước nầy rồi cũng khát lại, nhưng uống nước Ta ban cho sẽ chẳng bao giờ khát nữa. Nước Ta ban cho sẽ biến thành giếng nước trong người, tuôn tràn sự sống vĩnh phúc.” Thiếu phụ nói: “Thưa ông, xin cho tôi nước đó để tôi không còn khát và cũng khỏi đến đây múc nước nữa!” Ngài bảo: “Chị về gọi chồng ra đây!” Thiếu phụ thưa: “Tôi không có chồng!” Ngài nói: “Bảo là không chồng thì cũng đúng, vì chị đã có năm đời chồng và người chị hiện có cũng chẳng phải là chồng! Chị đã nói thật đó!” Thiếu phụ nói: “Thưa ông, tôi nhận thấy rằng ông là một tiên tri của Đức Chúa Trời. Tổ tiên chúng tôi đã thờ phượng trên ngọn núi nầy, còn các ông lại bảo Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi để thờ phượng!” Đức Giê-su đáp: “Nầy, chị hãy tin Ta đi, sắp đến lúc các người không còn thờ phượng Đức Chúa Cha trên ngọn núi nầy hay tại Giê-ru-sa-lem nữa. Các người thờ phượng Đấng các người không biết, còn chúng ta thờ phượng Đấng chúng ta biết, vì ơn cứu rỗi từ người Do Thái mà đến! Nhưng giờ sắp điểm và thật ra đã điểm đây rồi, lúc những người thực tâm thờ phượng sẽ thờ phượng Chúa Cha bằng tâm linh và lẽ thật, vì Chúa Cha vẫn tìm kiếm những người có lòng thờ phượng như vậy. Đức Chúa Trời là Linh Thần, nên những người thờ phượng Ngài phải lấy tâm linh, lẽ thật mà thờ phượng.” Thiếu phụ thưa: “Tôi biết Đấng Mê-si-a (nghĩa là Chúa Cứu Thế) sẽ đến và khi đến, Ngài sẽ chỉ bảo cho chúng ta tất cả.” Đức Giê-su đáp: “Ta, người đang nói với chị, chính là Đấng đó!” Lúc ấy các môn đệ Ngài vừa về, họ ngạc nhiên thấy Ngài chuyện trò với một thiếu phụ, nhưng không ai hỏi Thầy cần gì, hay tại sao lại chuyện trò với người thiếu phụ ấy? Thiếu phụ để vò nước lại, trở vào thành, nói với mọi người: “Ra đây mà xem người nầy; bao nhiêu việc tôi làm xưa nay ông đều nói đúng. Đó chẳng phải là Chúa Cứu Thế sao?” Họ kéo nhau ra khỏi thành đến cùng Ngài. Đang khi đó các môn đệ cứ nài nỉ: “Thưa Thầy, xin mời Thầy ăn!” Ngài trả lời: “Ta có thức ăn mà các con không biết được.” Các môn đệ bèn bảo nhau: “Chẳng lẽ có người đã mời Thầy ăn rồi sao?” Đức Giê-su bảo họ: “Thức ăn của Ta là tuân theo ý muốn của Đấng đã sai Ta và hoàn thành công việc Ngài. Chẳng phải chính các con đã nói còn bốn tháng nữa mới đến mùa gặt, nhưng Ta bảo: Hãy ngước mắt lên nhìn đồng lúa chín vàng, sẵn cho mùa gặt. Thợ gặt đã lãnh tiền công và thu góp hoa lợi vào sự sống vĩnh phúc để kẻ gieo chung vui với người gặt. Thật đúng như câu người ta vẫn nói: Kẻ thì lo gieo, người thì lo gặt. Chính Ta đã sai các con đến gặt ở chỗ mình không gieo, người khác đã nhọc nhằn để các con vào hưởng công lao của họ.” Nhiều người Sa-ma-ri ở thành đó tin Ngài, vì thiếu phụ kia làm chứng rằng Ngài đã nói đúng y mọi điều bà đã làm xưa nay. Vì vậy, những người Sa-ma-ri đến yêu cầu Ngài ở lại với họ, nên Ngài ở đó hai ngày. Người tin Đức Giê-su càng đông thêm khi nghe Ngài giảng dạy. Họ bảo thiếu phụ: “Bây giờ không phải vì nghe chị nói mà chúng tôi tin đâu, nhưng vì chính chúng tôi đã nghe Ngài dạy, nên chúng tôi biết rằng Ngài thật là Đấng Cứu Thế của nhân loại.”
Healing the Royal Official’s Son
After the two days he departed from there to Galilee. (For Jesus himself had testified that a prophet has no honor in his own country.) So when he came to Galilee, the Galileans welcomed him because they had seen all the things he had done in Jerusalem at the feast (for they themselves had gone to the feast).Now he came again to Cana in Galilee where he had made the water wine. In Capernaum there was a certain royal official whose son was sick. When he heard that Jesus had come back from Judea to Galilee, he went to him and begged him to come down and heal his son, who was about to die. So Jesus said to him, “Unless you people see signs and wonders you will never believe!” “Sir,” the official said to him, “come down before my child dies.” Jesus told him, “Go home; your son will live.” The man believed the word that Jesus spoke to him, and set off for home. While he was on his way down, his slaves met him and told him that his son was going to live. So he asked them the time when his condition began to improve, and they told him, “Yesterday at one o’clock in the afternoon the fever left him.” Then the father realized that it was the very time Jesus had said to him, “Your son will live,” and he himself believed along with his entire household. Jesus did this as his second miraculous sign when he returned from Judea to Galilee.
Chúa Chữa Lành Con Viên Quan
Hai ngày sau, Đức Giê-su lên đường đến Ga-li-lê, vì chính Ngài cũng đã xác nhận rằng không một tiên tri nào được tôn trọng tại quê hương. Khi đến Ga-li-lê, người Ga-li-lê nghênh tiếp Ngài, vì họ có lên Giê-ru-sa-lem dự lễ và đã chứng kiến mọi việc Ngài làm tại đó trong kỳ lễ. Rồi Ngài về lại Ca-na, miền Ga-li-lê, nơi Ngài đã hóa nước thành rượu. Một viên quan ở Ca-pha-na-um có đứa con trai lâm bệnh. Nghe tin Đức Giê-su đã rời Giu-đê về Ga-li-lê, ông đến xin Ngài xuống chữa bệnh cho con mình, vì đứa con đang hấp hối. Đức Giê-su nói với ông: “Nếu không thấy dấu lạ phép mầu, hẳn các người chẳng chịu tin đâu!” Viên quan thưa: “Lạy Chúa, xin Chúa đến trước khi con tôi chết!” Đức Giê-su bảo: “Cứ về đi, con của ông sống.” Người ấy tin lời Đức Giê-su nói với mình mà đi về. Trên đường về, các gia nhân ra đón ông trình rằng: “Con của chủ đã bình phục rồi!” Ông hỏi xem bình phục khi nào thì họ thưa: “Cậu hết sốt hôm qua, vào lúc một giờ trưa.” Người cha nhận ra rằng đó là giờ Đức Giê-su bảo mình: “Con của ông sống!” nên chính ông và cả nhà đều tin. Đây là dấu lạ thứ nhì mà Đức Giê-su đã làm sau khi Ngài rời Giu-đê về Ga-li-lê.
Healing a Paralytic at the Pool of Bethesda
After this there was a Jewish feast, and Jesus went up to Jerusalem. Now there is in Jerusalem by the Sheep Gate a pool called Bethzatha in Aramaic, which has five covered walkways. A great number of sick, blind, lame, and paralyzed people were lying in these walkways. Now a man was there who had been disabled for thirty-eight years. When Jesus saw him lying there and when he realized that the man had been disabled a long time already, he said to him, “Do you want to become well?” The sick man answered him, “Sir, I have no one to put me into the pool when the water is stirred up. While I am trying to get into the water, someone else goes down there before me.” Jesus said to him, “Stand up! Pick up your mat and walk.” Immediately the man was healed, and he picked up his mat and started walking. (Now that day was a Sabbath.) So the Jewish leaders said to the man who had been healed, “It is the Sabbath, and you are not permitted to carry your mat.” But he answered them, “The man who made me well said to me, ‘Pick up your mat and walk.’” They asked him, “Who is the man who said to you, ‘Pick up your mat and walk’?” But the man who had been healed did not know who it was, for Jesus had slipped out, since there was a crowd in that place. After this Jesus found him at the temple and said to him, “Look, you have become well. Don’t sin any more, lest anything worse happen to you.” The man went away and informed the Jewish leaders that Jesus was the one who had made him well. Now because Jesus was doing these things on the Sabbath, the Jewish leaders began persecuting him. So he told them, “My Father is working until now, and I too am working.” For this reason the Jewish leaders were trying even harder to kill him, because not only was he breaking the Sabbath, but he was also calling God his own Father, thus making himself equal with God.
Chúa Chữa Bệnh Bên Hồ Bết-xa-tha
Sau đó, nhằm một kỳ lễ của người Do Thái, Đức Giê-su lên Giê-ru-sa-lem. Tại Giê-ru-sa-lem, gần bên Cửa Chiên, có một cái hồ dưới vòm cung năm hàng cột, tiếng Do Thái gọi là Bết-xa-tha. Người đau yếu, mù lòa, què quặt và bại liệt nằm tại đây rất đông. Họ chờ khi nước động, vì thỉnh thoảng một thiên sứ của Chúa giáng xuống hồ, khuấy động mặt nước, người nào xuống hồ đầu tiên khi nước dao động thì dù mắc bệnh gì cũng được lành. Ở đó có một người mắc bệnh đã ba mươi tám năm. Đức Giê-su thấy người nằm liệt, biết người mang bệnh đã lâu nên hỏi: “Anh có muốn lành bệnh không?” Người bệnh đáp: “Thưa ông, chẳng có ai quăng tôi xuống hồ khi nước dao động. Khi tôi lần tới được thì người khác đã xuống trước tôi rồi!” Đức Giê-su bảo: “Anh hãy đứng dậy, vác chõng rồi bước đi!” Lập tức, người ấy được lành, mang chõng mà đi. Hôm ấy nhằm ngày Sa-bát. Vì thế, người Do Thái nói với người được chữa lành: “Hôm nay là ngày Sa-bát, anh không được phép vác chõng đi như vậy!” Anh ta đáp: “Chính người đã chữa lành cho tôi bảo tôi: Hãy vác chõng mà đi!” Họ hỏi: “Ai là người dám bảo anh mang chõng đi?” Người được lành bệnh không biết là ai vì Đức Giê-su đã lẩn vào đám đông đang tụ tập tại đó. Sau đó, Đức Giê-su gặp người ấy tại đền thờ, Ngài bảo: “Nầy, anh đã lành rồi, đừng phạm tội nữa, e lại gặp điều càng tệ hơn chăng?” Người ấy ra đi báo cho người Do Thái biết rằng chính Đức Giê-su là người đã chữa lành cho mình. Thế là người Do Thái theo dõi bắt bớ Đức Giê-su, chỉ vì Ngài đã làm những việc ấy trong ngày Sa-bát. Nhưng Đức Giê-su trả lời: “Cha Ta xưa nay vẫn làm việc và Ta cũng làm như vậy!” Do đó, người Do Thái càng rắp tâm sát hại Đức Giê-su, vì không những Ngài đã phạm ngày Sa-bát mà còn gọi Đức Chúa Trời là Cha, tự cho mình bình đẳng với Đức Chúa Trời.
Authority of the Son
So Jesus answered them, “I tell you the solemn truth, the Son can do nothing on his own initiative, but only what he sees the Father doing. For whatever the Father does, the Son does likewise. For the Father loves the Son and shows him everything he does, and will show him greater deeds than these, so that you will be amazed. For just as the Father raises the dead and gives them life, so also the Son gives life to whomever he wishes. Furthermore, the Father does not judge anyone, but has assigned all judgment to the Son, so that all people will honor the Son just as they honor the Father. The one who does not honor the Son does not honor the Father who sent him. “I tell you the solemn truth, the one who hears my message and believes the one who sent me has eternal life and will not be condemned, but has crossed over from death to life. I tell you the solemn truth, a time is coming – and is now here – when the dead will hear the voice of the Son of God, and those who hear will live. For just as the Father has life in himself, thus he has granted the Son to have life in himself, and he has granted the Son authority to execute judgment, because he is the Son of Man. “Do not be amazed at this, because a time is coming when all who are in the tombs will hear his voice and will come out – the ones who have done what is good to the resurrection resulting in life, and the ones who have done what is evil to the resurrection resulting in condemnation. I can do nothing on my own initiative. Just as I hear, I judge, and my judgment is just, because I do not seek my own will, but the will of the one who sent me.
Thẩm Quyền Của Đức Chúa Con
Vì thế, Đức Giê-su nói: “Thật vậy, Ta bảo các người: Con chẳng tự mình làm gì, trừ những việc Con thấy nơi Cha, vì điều nào Cha làm thì Con mới làm! Vì Cha yêu quý Con nên bày tỏ cho Con tất cả những điều Cha làm và lại còn tỏ những việc vĩ đại hơn nữa, làm các người phải kinh ngạc. Như Cha đã khiến kẻ chết sống lại và ban sự sống cho họ thế nào thì Con cũng sẽ ban sự sống cho người nào Con muốn thể ấy! Vì Cha chẳng đoán xét ai cả nhưng đã trao cho Con trọn quyền đoán xét để mọi người tôn kính Con cũng như họ đã tôn kính Cha. Người nào chẳng tôn kính Con thì cũng không tôn kính Cha là Đấng đã sai Con đến. Thật vậy, Ta bảo các người, ai nghe theo lời Ta mà tin Đấng đã sai Ta sẽ được sự sống vĩnh phúc, và khỏi phải bị đoán phạt, nhưng vượt khỏi sự chết để đến sự sống. Thật vậy, Ta bảo các người: Giờ sắp điểm, mà thật ra đã điểm đây rồi, lúc những người chết sẽ được nghe tiếng gọi của Con Đức Chúa Trời và những người nào nghe sẽ được sống. Vì chính Cha là Nguồn Sự Sống, nên Ngài cũng đã cho Con làm Nguồn Sự Sống. Ngài đã ban cho Con trọn quyền phán xét, vì Con chính là Con Người! Các người đừng kinh ngạc về điều nầy, vì giờ sắp điểm, khi tất cả những người nằm trong mộ sẽ nghe tiếng gọi của Ngài và ra khỏi mộ. Ai làm việc thiện sẽ sống lại để được sống, còn ai làm điều ác sẽ sống lại để nhận án phạt. Ta không thể tự mình làm việc gì. Ta phán xét theo điều Ta nghe biết và sự phán xét của Ta thật công minh vì Ta không theo ý Ta nhưng theo ý Đấng đã sai Ta.
More Testimony About Jesus
“If I testify about myself, my testimony is not true.There is another who testifies about me, and I know the testimony he testifies about me is true. You have sent to John, and he has testified to the truth. (I do not accept human testimony, but I say this so that you may be saved.) He was a lamp that was burning and shining, and you wanted to rejoice greatly for a short time in his light. “But I have a testimony greater than that from John. For the deeds that the Father has assigned me to complete – the deeds I am now doing – testify about me that the Father has sent me. And the Father who sent me has himself testified about me. You people have never heard his voice nor seen his form at any time, nor do you have his word residing in you, because you do not believe the one whom he sent. You study the scriptures thoroughly because you think in them you possess eternal life, and it is these same scriptures that testify about me, but you are not willing to come to me so that you may have life. “I do not accept praise from people, but I know you, that you do not have the love of God within you. I have come in my Father’s name, and you do not accept me. If someone else comes in his own name, you will accept him. How can you believe, if you accept praise from one another and don’t seek the praise that comes from the only God? “Do not suppose that I will accuse you before the Father. The one who accuses you is Moses, in whom you have placed your hope. If you believed Moses, you would believe me, because he wrote about me. But if you do not believe what Moses wrote, how will you believe my words?
Chứng Cớ Về Đức Giê-su
Nếu chính Ta làm chứng về mình, lời chứng của Ta không hợp lệ; có Đấng khác làm chứng về Ta và Ta biết lời chứng của Ngài về Ta là xác thực. Chính các người đã cử người đến cùng Giăng và người đã xác chứng sự thật. Ta không dựa vào lời chứng của loài người, nhưng Ta nói lên những điều nầy để các người được cứu rỗi. Giăng là ngọn đèn được chiếu sáng mà chính các người thích tạm vui hưởng ánh sáng của người trong giây lát. Nhưng chính Ta có một bằng chứng hùng mạnh hơn của Giăng, đó là các công tác Cha giao cho Ta hoàn tất. Chính các công tác Ta làm đó chứng thực về Ta rằng Cha đã sai Ta! Chính Cha là Đấng sai Ta và làm chứng về Ta. Các người chưa bao giờ nghe được tiếng của Ngài, cũng chưa bao giờ thấy được hình dạng Ngài. Đạo Ngài các người đã không giữ trong lòng, vì các người không chịu tin theo Đấng mà Ngài sai đến. Các người nghiên cứu Kinh Thánh, vì các người tin rằng trong đó có sự sống vĩnh phúc. Chính Kinh Thánh cũng làm chứng về Ta. Thế mà các người vẫn không chịu đến cùng Ta để được sự sống. Ta chẳng cầu vinh nơi loài người, nhưng Ta biết các người chẳng có lòng yêu kính Đức Chúa Trời. Chính Ta đã nhân danh Cha Ta mà đến nhưng các người không tiếp nhận Ta; nếu có người nào khác lấy danh nghĩa riêng mà đến thì các người lại đón tiếp! Làm sao các người tin được một khi các người chỉ thích nhận vinh quang của nhau thay vì tìm kiếm vinh quang từ Đức Chúa Trời duy nhất? Đừng tưởng rằng Ta sẽ tố cáo các người trước mặt Cha; Môi-se, người mà các người kỳ vọng, chính là người sẽ tố cáo các người! Nếu các người thật sự tin lời Môi-se thì hẳn đã tin Ta, vì người viết về Ta! Nhưng nếu những lời người ghi chép mà các người còn ,không tin, thì làm sao các người tin lời Ta nói đây?”
The Feeding of the Five Thousand
After this Jesus went away to the other side of the Sea of Galilee (also called the Sea of Tiberias). A large crowd was following him because they were observing the miraculous signs he was performing on the sick. So Jesus went on up the mountainside and sat down there with his disciples. (Now the Jewish feast of the Passover was near.) Then Jesus, when he looked up and saw that a large crowd was coming to him, said to Philip, “Where can we buy bread so that these people may eat?” (Now Jesus said this to test him, for he knew what he was going to do.) Philip replied, “Two hundred silver coins worth of bread would not be enough for them, for each one to get a little.” One of Jesus’ disciples, Andrew, Simon Peter’s brother, said to him, “Here is a boy who has five barley loaves and two fish, but what good are these for so many people?” Jesus said, “Have the people sit down.” (Now there was a lot of grass in that place.) So the men sat down, about five thousand in number. Then Jesus took the loaves, and when he had given thanks, he distributed the bread to those who were seated. He then did the same with the fish, as much as they wanted. When they were all satisfied, Jesus said to his disciples, “Gather up the broken pieces that are left over, so that nothing is wasted.” So they gathered them up and filled twelve baskets with broken pieces from the five barley loaves left over by the people who had eaten. Now when the people saw the miraculous sign that Jesus performed, they began to say to one another, “This is certainly the Prophet who is to come into the world.” Then Jesus, because he knew they were going to come and seize him by force to make him king, withdrew again up the mountainside alone. Now when evening came, his disciples went down to the lake, got into a boat, and started to cross the lake to Capernaum. (It had already become dark, and Jesus had not yet come to them.) By now a strong wind was blowing and the sea was getting rough. Then, when they had rowed about three or four miles, they caught sight of Jesus walking on the lake, approaching the boat, and they were frightened. But he said to them, “It is I. Do not be afraid.” Then they wanted to take him into the boat, and immediately the boat came to the land where they had been heading. The next day the crowd that remained on the other side of the lake realized that only one small boat had been there, and that Jesus had not boarded it with his disciples, but that his disciples had gone away alone. But some boats from Tiberias came to shore near the place where they had eaten the bread after the Lord had given thanks. So when the crowd realized that neither Jesus nor his disciples were there, they got into the boats and came to Capernaum looking for Jesus.When they found him on the other side of the lake, they said to him, “Rabbi, when did you get here?” Jesus replied, “I tell you the solemn truth, you are looking for me not because you saw miraculous signs, but because you ate all the loaves of bread you wanted. Do not work for the food that disappears, but for the food that remains to eternal life – the food which the Son of Man will give to you. For God the Father has put his seal of approval on him.” So then they said to him, “What must we do to accomplish the deeds God requires?” Jesus replied, “This is the deed God requires – to believe in the one whom he sent.” So they said to him, “Then what miraculous sign will you perform, so that we may see it and believe you? What will you do? Our ancestors ate the manna in the wilderness, just as it is written, ‘He gave them bread from heaven to eat.’” Then Jesus told them, “I tell you the solemn truth, it is not Moses who has given you the bread from heaven, but my Father is giving you the true bread from heaven. For the bread of God is the one who comes down from heaven and gives life to the world.” So they said to him, “Sir, give us this bread all the time!” Jesus said to them, “I am thebread of life. The one who comes to me will never go hungry, and the one who believes in me will never be thirsty. But I told you that you have seen me and still do not believe. Everyone whom the Father gives me will come to me, and the one who comes to me I will never send away. For I have come down from heaven not to do my own will but the will of the one who sent me. Now this is the will of the one who sent me – that I should not lose one person of every one he has given me, but raise them all up at the last day. For this is the will of my Father – for everyone who looks on the Son and believes in him to have eternal life, and I will raise him up at the last day.” Then the Jews who were hostile to Jesus began complaining about him because he said, “I am the bread that came down from heaven,” and they said, “Isn’t this Jesus the son of Joseph, whose father and mother we know? How can he now say, ‘I have come down from heaven’?” Jesus replied, “Do not complain about me to one another. No one can come to me unless the Father who sent me draws him, and I will raise him up at the last day. It is written in the prophets, ‘And they will all be taught by God.’ Everyone who hears and learns from the Father comes to me. (Not that anyone has seen the Father except the one who is from God – he has seen the Father.) I tell you the solemn truth, the one who believes has eternal life. I am the bread of life. Your ancestors ate the manna in the wilderness, and they died. This is the bread that has come down from heaven, so that a person may eat from it and not die. I am the living bread that came down from heaven. If anyone eats from this bread he will live forever. The bread that I will give for the life of the world is my flesh.” Then the Jews who were hostile to Jesus began to argue with one another, “How can this man give us his flesh to eat?” Jesus said to them, “I tell you the solemn truth, unless you eat the flesh of the Son of Man and drink his blood, you have no life in yourselves. The one who eats my flesh and drinks my blood has eternal life, and I will raise him up on the last day. For my flesh is true food, and my blood is true drink. The one who eats my flesh and drinks my blood resides in me, and I in him. Just as the living Father sent me, and I live because of the Father, so the one who consumes me will live because of me. This is the bread that came down from heaven; it is not like the bread your ancestors ate, but then later died. The one who eats this bread will live forever.” Jesus said these things while he was teaching in the synagogue in Capernaum. Then many of his disciples, when they heard these things, said, “This is a difficult saying! Who can understand it?” When Jesus was aware that his disciples were complaining about this, he said to them, “Does this cause you to be offended? Then what if you see the Son of Man ascending where he was before? The Spirit is the one who gives life; human nature is of no help! The words that I have spoken to you are spirit and are life. But there are some of you who do not believe.” (For Jesus had already known from the beginning who those were who did not believe, and who it was who would betray him.) So Jesus added, “Because of this I told you that no one can come to me unless the Father has allowed him to come.”After this many of his disciples quit following him and did not accompany him any longer. So Jesus said to the twelve, “You don’t want to go away too, do you?” Simon Peter answered him, “Lord, to whom would we go? You have the words of eternal life. We have come to believe and to know that you are the Holy One of God!” Jesus replied, “Didn’t I choose you, the twelve, and yet one of you is the devil?” (Now he said this about Judas son of Simon Iscariot, for Judas, one of the twelve, was going to betray him.)
Chúa Hóa Bánh Cho Năm Ngàn Người Ăn
Sau những việc nầy, Đức Giê-su qua bên kia biển hồ Ga-li-lê, cũng gọi là Ti-bê-ri-át. Một đoàn người đông đảo đi theo Ngài vì được chứng kiến những dấu lạ Ngài làm cho những người bệnh. Đức Giê-su lên núi cùng ngồi với các môn đệ. Hôm ấy gần đến lễ Vượt Qua, kỳ hội lớn của người Do Thái. Vậy, Đức Giê-su ngước mắt lên, nhìn đoàn người đông đảo đến với Ngài rồi hỏi Phi-líp: “Ta tìm đâu ra bánh để mua cho họ ăn đây?” Ngài hỏi vậy để thử Phi-líp chứ Ngài đã biết mình sắp làm gì rồi. Phi-líp thưa: “Lấy hai trăm đồng đê-na-ri mua bánh cũng không đủ cho mỗi người một miếng nhỏ.” Một môn đệ khác của Ngài là An-rê, em Si-môn Phê-rơ, thưa với Ngài: “Đây có một cậu bé mang theo năm cái bánh lúa mạch và hai con cá, nhưng đông thế nầy thì thấm vào đâu!” Đức Giê-su nói: “Hãy bảo người ta ngồi xuống!” Chỗ ấy có nhiều cỏ, nên họ ngồi lại, kể riêng đàn ông có đến năm ngàn. Vậy, Đức Giê-su cầm bánh, cảm tạ Đức Chúa Trời rồi phân phát cho những người ngồi đó, xong bánh lại đến cá, ai muốn bao nhiêu tùy ý. Khi họ đã ăn no, Ngài bảo các môn đệ: “Hãy thu lượm bánh thừa để khỏi phí phạm.” Vậy họ thu lượm những mảnh vụn của năm chiếc bánh lúa mạch mà người ta đã ăn, được mười hai giỏ đầy. Khi đã thấy phép lạ Ngài làm, người ta bảo nhau: “Người nầy chính là vị tiên tri, Đấng phải đến thế gian.” Rồi vì biết rằng họ sắp đến ép Ngài lên làm vua, Đức Giê-su lại lánh lên núi một mình. Đến chiều, các môn đệ của Ngài trở xuống biển, lên thuyền sang bờ bên kia về hướng Ca-pha-na-um. Trời đã tối mà Đức Giê-su vẫn chưa đến với họ. Gió chợt thổi mạnh và biển nổi sóng lớn. Họ chèo chống được khoảng năm hay sáu cây số, thì thấy Đức Giê-su đi trên mặt biển đến gần thuyền. Họ kinh hoàng, nhưng Ngài bảo họ: “Chính Ta đây, đừng sợ nữa!” Họ muốn rước Ngài vào thuyền, thì lập tức thuyền đã cập vào bến mà họ định đi đến. Ngày hôm sau, đoàn dân còn ở lại bên kia biển hồ thấy ở đó chỉ có một chiếc thuyền mà Đức Giê-su thì không xuống thuyền với các môn đệ, chỉ có các môn đệ của Ngài chèo đi thôi. Những thuyền khác từ Ti-bê-ri-át cập bến gần chỗ đoàn dân đã ăn bánh sau khi Chúa tạ ơn. Vì vậy, khi đoàn dân không thấy Đức Giê-su và các môn đệ Ngài ở đó thì lên thuyền đến Ca-pha-na-um tìm Đức Giê-su. Khi gặp được Ngài bên kia bờ biển, họ hỏi Ngài: “Thưa Thầy, Thầy đến đây lúc nào vậy?” Đức Giê-su đáp: “Thật vậy, Ta bảo các người: Các người tìm Ta chẳng phải vì đã chứng kiến các dấu lạ nhưng chỉ vì được bánh ăn no nê! Đừng khổ vì miếng ăn hay hư nát nhưng vì thức ăn còn đến sự sống vĩnh phúc mà Con Người sẽ ban cho các người. Đức Chúa Trời là Cha đã ấn chứng cho Người!” Họ thưa: “Chúng tôi phải làm gì để được làm việc của Đức Chúa Trời?” Đức Giê-su đáp: “Làm việc của Đức Chúa Trời là tin Đấng mà Ngài đã sai đến.” Họ nói với Ngài: “Vậy Thầy tự làm dấu lạ gì cho chúng tôi thấy để tin Thầy? Thầy sắp thi thố việc gì đây? Tổ phụ chúng ta ăn bánh ma-na trong đồng hoang, đúng như Kinh Thánh chép: ‘Họ ăn bánh từ trời ban xuống.’ ” Đức Giê-su đáp: “Thật vậy, Ta bảo các người: Không phải Môi-se cho các người bánh từ trời đâu, nhưng chính Cha Ta mới thật ban cho các người bánh từ trời! Vì bánh của Đức Chúa Trời là bánh từ trời xuống, cung ứng sự sống cho loài người.” Họ nói: “Thưa Thầy, xin cứ luôn luôn ban cho chúng tôi thứ bánh ấy!” Đức Giê-su đáp: “Chính Ta là bánh hằng sống, ai đến với Ta sẽ không bao giờ đói, còn ai tin Ta sẽ chẳng bao giờ khát! Nhưng Ta đã nói với các người, dù thấy Ta nhưng các người vẫn không chịu tin.Tất cả những gì Cha cho Ta sẽ quy về Ta, người nào đến với Ta, Ta sẽ không bao giờ ruồng bỏ! Vì Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý riêng Ta, nhưng theo ý Đấng đã sai Ta. Và đây là ý Đấng đã sai Ta, ấy là tất cả những người Cha đã cho Ta, Ta sẽ không để cho hư mất, nhưng Ta sẽ làm cho sống lại trong ngày cuối cùng. Vì đây là ý Cha Ta, ấy là người nào nhận ra Con và tin theo Ngài thì sẽ được sự sống vĩnh phúc, và chính Ta sẽ khiến người ấy sống lại trong ngày cuối cùng!” Thế là người Do Thái bắt đầu thì thầm bàn tán với nhau vì câu Ngài nói: Ta là bánh từ trời xuống. Họ bảo: “Người nay không phải là Giê-su con Giô-sép sao? Cha mẹ anh ấy chúng ta đều biết cả, sao bây giờ lại dám nói: Ta từ trời xuống?” Đức Giê-su đáp: “Đừng xầm xì với nhau nữa! Không một ai có thể đến với Ta nếu không được Cha là Đấng đã sai Ta đem đến và Ta sẽ khiến người ấy sống lại trong ngày cuối cùng! Kinh Tiên Tri chép: ‘Mọi người sẽ được Đức Chúa Trời chỉ dạy.’ Người nào lắng nghe Cha và học theo thì đến với Ta. Không ai thấy được Cha, ngoài Đấng ở cùng Đức Chúa Trời, chính Đấng ấy đã thấy Cha. Thật vậy, Ta bảo các người: Người nào tin thì được sự sống vĩnh phúc. Chính Ta là bánh hằng sống. Tổ phụ các người đã ăn bánh ma-na trong đồng hoang rồi cũng chết. Còn đây là bánh từ trời xuống để người nào ăn khỏi phải chết. Chính Ta là bánh hằng sống từ trời xuống, người nào ăn bánh nầy sẽ sống đời đời. Và bánh mà Ta sẽ ban để loài người được sống chính là thân xác Ta.” Người Do Thái liền cãi vã với nhau rằng: “Làm sao người nầy có thể lấy thân xác mình cho chúng ta ăn được?” Đức Giê-su nói: “Thật vậy, Ta bảo các người: Các người sẽ không có được sự sống trong mình cho đến chừng các người ăn thịt của Con Người và uống huyết của Người. Người nào ăn thịt Ta và uống huyết Ta thì được sự sống vĩnh phúc, còn chính Ta sẽ khiến người ấy sống lại trong ngày cuối cùng. Vì thân xác Ta thật là thức ăn và huyết Ta thật là thức uống. Người nào ăn thịt Ta và uống huyết Ta thì ở trong Ta và chính Ta ở trong người. Vì như Cha hằng sống đã sai Ta và Ta nhờ Cha mà sống, thì người nào ăn lấy Ta cũng sẽ nhờ Ta mà sống như vậy. Đây là bánh từ trời xuống, nào phải như thứ bánh tổ phụ đã ăn rồi cũng chết. Người nào ăn bánh nay sẽ sống đời đời.” Đức Giê-su dạy những điều nầy tại hội đường ở Ca-pha-na-um. Nhiều môn đệ của Ngài nghe vậy thì nói: “Lời nầy sao khó nghe quá, ai chấp nhận nổi?” Nhưng Đức Giê-su tự biết các môn đệ đang càu nhàu về việc đó, liền bảo họ: “Điều nầy làm các con bất mãn sao? Nếu các con được thấy Con Người thăng thiên về nơi Ngài ở trước kia thì thế nào? Thần linh mới tạo nên sự sống, còn thể xác chẳng ích gì cả! Những lời Ta truyền cho các con là thần linh và sự sống. Dầu vậy giữa vòng các con vẫn có người không tin.” Vì ngay từ đầu, Đức Giê-su đã biết những ai không tin và người nào sẽ phản bội Ngài, Chúa lại phán: “Vì vậy Ta đã bảo các con rằng nếu Cha không cho thì không một ai có thể đến với Ta được!” Từ đó, nhiều môn đệ của Ngài rút lui, không theo Ngài nữa. Đức Giê-su mới hỏi mười hai sứ đồ: “Còn các con cũng muốn bỏ đi sao?” Si-môn Phê-rơ thưa: “Lạy Chúa, chúng con còn theo ai nữa? Chúa có lời sự sống vĩnh phúc! Chúng con đã tin và biết chắc chính Chúa là Đấng Thánh của Đức Chúa Trời.” Đức Giê-su đáp: “Chính Ta đã chẳng chọn các con là mười hai người sao? Thế mà một người trong các con lại là quỷ!” Đây Ngài nói về Giu-đa, con của Si-môn Ích-ca-ri-ốt, vì hắn ta sắp phản bội Ngài (dù là một người trong mười hai sứ đồ).
Jesus’ Brothers
After this Jesus traveled throughout Galilee. He stayed out of Judea because the Jewish leaders wanted to kill him. Now the Jewish feast of Tabernacles was near. So Jesus’ brothers advised him, “Leave here and go to Judea so your disciples may see your miracles that you are performing. For no one who seeks to make a reputation for himself does anything in secret. If you are doing these things, show yourself to the world.” (For not even his own brothers believed in him.) So Jesus replied, “My time has not yet arrived, but you are ready at any opportunity! The world cannot hate you, but it hates me, because I am testifying about it that its deeds are evil. You go up to the feast yourselves. I am not going up to this feast because my time has not yet fully arrived.” When he had said this, he remained in Galilee. But when his brothers had gone up to the feast, then Jesus himself also went up, not openly but in secret. So the Jewish leaders were looking for him at the feast, asking, “Where is he?” There was a lot of grumbling about him among the crowds. Some were saying, “He is a good man,” but others, “He deceives the common people.” However, no one spoke openly about him for fear of the Jewish leaders.When the feast was half over, Jesus went up to the temple courts and began to teach. Then the Jewish leaders were astonished and said, “How does this man know so much when he has never had formal instruction?” So Jesus replied, “My teaching is not from me, but from the one who sent me. If anyone wants to do God’s will, he will know about my teaching, whether it is from God or whether I speak from my own authority. The person who speaks on his own authority desires to receive honor for himself; the one who desires the honor of the one who sent him is a man of integrity, and there is no unrighteousness in him. Hasn’t Moses given you the law? Yet not one of you keeps the law! Why do you want to kill me?” The crowd answered, “You’re possessed by a demon! Who is trying to kill you?” Jesus replied, “I performed one miracle and you are all amazed. However, because Moses gave you the practice of circumcision (not that it came from Moses, but from the forefathers), you circumcise a male child on the Sabbath. But if a male child is circumcised on the Sabbath so that the law of Moses is not broken, why are you angry with me because I made a man completely well on the Sabbath? Do not judge according to external appearance, but judge with proper judgment.” Then some of the residents of Jerusalem began to say, “Isn’t this the man they are trying to kill? Yet here he is, speaking publicly, and they are saying nothing to him. Do the rulers really know that this man is the Christ? But we know where this man comes from. Whenever the Christ comes, no one will know where he comes from.” Then Jesus, while teaching in the temple courts, cried out, “You both know me and know where I come from! And I have not come on my own initiative, but the one who sent me is true. You do not know him, but I know him, because I have come from him and he sent me.” So then they tried to seize Jesus, but no one laid a hand on him, because his time had not yet come. Yet many of the crowd believed in him and said, “Whenever the Christ comes, he won’t perform more miraculous signs than this man did, will he?”
Các Em Chúa
Sau các việc nầy, Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê; Ngài không muốn lui tới miền Giu-đê nữa vì người Do Thái đang âm mưu giết Ngài. Gần đến kỳ lễ Lều Trại của người Do Thái, các em trai của Đức Giê-su nói với Ngài: “Sao anh không rời nay mà lên Giu-đê để các môn đệ anh mục kích những việc anh làm? Vì có ai muốn được nhiều người biết mà lại làm việc một cách kín đáo? Đã làm được những việc nầy thì anh nên ra mặt cho thiên hạ biết đi!” Vì các em Ngài không tin theo Ngài, nên Đức Giê-su bảo họ: “Thời điểm của anh chưa tới, nhưng đối với các em, thì giờ nào cũng thuận tiện. Thiên hạ làm sao ghét các em được, nhưng họ ghét anh, vì chính anh đã làm chứng rằng những việc họ làm là gian ác. Các em cứ lên dự lễ; anh chưa lên dự kỳ lễ nầy đâu, vì giờ của anh chưa tới!” Sau khi nói những lời nầy, Ngài nán lại Ga-li-lê. Nhưng khi các em Ngài đã lên dự lễ rồi, thì chính Ngài cũng đi, nhưng kín đáo chứ không công khai. Trong kỳ lễ, người Do Thái đi tìm Ngài và hỏi nhau: “Người ấy đâu rồi?” Đám đông xì xào bàn tán nhiều về Ngài. Người thì nói: “Ông ấy là người nhân đức!” Kẻ khác lại bảo: “Không phải đâu, ông ấy chỉ mị dân!” Tuy nhiên, không ai dám nói công khai về Ngài vì sợ người Do Thái. Đến giữa kỳ lễ, Đức Giê-su lên đền thờ giảng dạy. Người Do Thái ngạc nhiên bảo nhau: “Người nầy không học mà sao lại thông thạo Kinh Thánh như vậy?” Đức Giê-su đáp: “Giáo lý Ta dạy không phải của Ta mà là của Đấng đã sai Ta đến! Người nào chịu làm theo ý Ngài sẽ biết giáo lý nầy đến từ Đức Chúa Trời hay là chính Ta tự nói ra. Kẻ tự ý mình mà nói thì chỉ tìm danh vọng riêng cho mình. Còn người lo tôn vinh Đấng đã sai mình mới là người chân thật, không có gì bất chính. Môi-se đã chẳng ban bố Kinh Luật cho các người sao? Thế mà không một ai trong các người vâng giữ Kinh Luật ấy. Sao các người lại tìm cách giết Ta?” Đoàn dân trả lời: “Ông bị quỷ nhập rồi, chứ có ai tìm giết ông đâu!” Đức Giê-su nói: “Ta mới làm một việc mà tất cả các người đều đã ngạc nhiên. Vì Môi-se đã truyền cho các người lễ cắt bì (thật ra, không phải Môi-se mà các tổ phụ truyền lại), nên các người làm lễ cắt bì cho người ta trong ngày Sa-bát. Người ta được phép chịu lễ cắt bì trong ngày Sa-bát mà vẫn khỏi phạm luật Môi-se, thì cũng trong ngày Sa-bát, Ta chữa lành toàn thân một người, sao các người lại tức giận với Ta? Đừng xét theo bề ngoài nhưng hãy lấy lẽ công minh mà xét! Vậy, vài người dân thành Giê-ru-sa-lem hỏi nhau: “Đây không phải là người mà họ đang tìm cách giết sao? Kìa, sao người ấy phát biểu công khai mà không ai nói gì cả? Hay là cấp lãnh đạo đã biết người nầy thật là Chúa Cứu Thế? Khi Chúa Cứu Thế xuất hiện thì không ai biết Ngài từ đâu đến, còn người nầy chúng ta đã rõ lai lịch!” Đang giảng dạy trong đền thờ, Đức Giê-su liền lên tiếng nói rằng: “Phải, các người biết Ta và biết Ta từ đâu đến! Ta không tự mình đến đây, nhưng có Đấng Chân Thật đã sai Ta mà các người không biết. Còn Ta thì biết Ngài vì Ta từ Ngài mà đến và Ngài là Đấng đã sai Ta.” Vậy, họ tìm cách bắt Ngài, nhưng chưa ai ra tay được, vì giờ của Ngài chưa tới. Tuy nhiên, nhiều người trong đoàn dân tin Ngài và nói: “Khi Chúa Cứu Thế đến, chắc gì đã làm được nhiều dấu lạ hơn người nầy!”
The Attempt to Arrest Jesus
The Pharisees heard the crowd murmuring these things about Jesus, so the chief priests and the Pharisees sent officers to arrest him. Then Jesus said, “I will be with you for only a little while longer, and then I am going to the one who sent me. You will look for me but will not find me, and where I am you cannot come.” Then the Jewish leaders said to one another, “Where is he going to go that we cannot find him? He is not going to go to the Jewish people dispersed among the Greeks and teach the Greeks, is he? What did he mean by saying, ‘You will look for me but will not find me, and where I am you cannot come’?”
Âm Mưu Bắt Chúa
Những người Pha-ri-si nghe đoàn dân xì xào bàn tán về Ngài như vậy, liền cùng với các thượng tế sai thuộc hạ đi bắt Ngài. Đức Giê-su nói: “Ta còn ở với các người ít lâu nữa rồi Ta sẽ đi về cùng Đấng đã sai Ta. Dù các người có tìm Ta cũng chẳng gặp, vì các người không thể đến được nơi Ta ở!” Người Do Thái bảo nhau: “Người nầy sắp đi đâu mà chúng ta sẽ không gặp được? Hay ông ta đi đến với kiều bào tản lạc ở hải ngoại giữa vòng người Hy Lạp để giảng dạy cho người Hy Lạp nữa? Ông ta ngụ ý gì mà lại nói rằng: Các người có tìm Ta cũng chẳng gặp được và các người không thể đến nơi Ta ở?”
Jesus Teaches About the Living Water
On the last day of the feast, the greatest day, Jesus stood up and shouted out, “If anyone is thirsty, let him come to me, and let the one who believes in me drink. Just as the scripture says, ‘From within him will flow rivers of living water.’” (Now he said this about the Spirit, whom those who believed in him were going to receive, for the Spirit had not yet been given, because Jesus was not yet glorified.) When they heard these words, some of the crowd began to say, “This really is the Prophet!” Others said, “This is the Christ!” But still others said, “No, for the Christ doesn’t come from Galilee, does he? Don’t the scriptures say that the Christ is a descendant of David and comes from Bethlehem, the village where David lived?” So there was a division in the crowd because of Jesus. Some of them were wanting to seize him, but no one laid a hand on him
Nước Hằng Sống
Đến ngày cuối của kỳ lễ là ngày long trọng nhất, Đức Giê-su đứng dậy, lên tiếng kêu gọi: “Người nào khát, hãy đến cùng Ta mà uống! Người nào tin Ta thì sông nước trường sinh sẽ tuôn tràn từ cõi lòng mình, đúng như Kinh Thánh đã dạy.” Đức Giê-su nói điều nầy để chỉ về Thánh Linh mà những người tin Ngài sắp nhận lãnh. Thật ra, Thánh Linh chưa giáng xuống vì Đức Giê-su chưa được hiển vinh. Nghe những lời nầy, một số người trong đoàn dân bảo: “Người nầy chính thật là vị tiên tri của Chúa!” Số khác lại nói: “Người nầy chính là Chúa Cứu Thế!” Nhưng cũng có những người khác thắc mắc: “Chúa Cứu Thế mà lại xuất thân từ miền Ga-li-lê sao? Kinh Thánh đã chẳng từng dạy rằng Chúa Cứu Thế phải ra từ dòng vua Đa-vít, cùng nguyên quán Bết-lê-hem với vua Đa-vít sao?” Do đó, dân chúng chia rẽ nhau vì cớ Ngài. Một số người muốn bắt giữ Ngài, nhưng chẳng một ai dám ra tay.
Prejudice Against Jesus
Then the officers returned to the chief priests and Pharisees, who said to them, “Why didn’t you bring him back with you?” The officers replied, “No one ever spoke like this man!” Then the Pharisees answered, “You haven’t been deceived too, have you? None of the rulers or the Pharisees have believed in him, have they? But this rabble who do not know the law are accursed!” Nicodemus, who had gone to Jesus before and who was one of the rulers, said, “Our law doesn’t condemn a man unless it first hears from him and learns what he is doing, does it?” They replied, “You aren’t from Galilee too, are you? Investigate carefully and you will see that no prophet comes from Galilee!”And each one departed to his own house.
Thành Kiến Về Chúa Giê-su
Khi đám thuộc hạ trở về, các thượng tế và người Pha-ri-si hỏi họ: “Sao không giải hắn đến đây?” Họ trình: “Chưa bao giờ có ai ăn nói hay như người nầy!” Người Pha-ri-si hỏi vặn lại: “Chính các anh cũng bị lừa sao? Có ai trong bậc quan quyền hay người Pha-ri-si tin hắn đâu? Nhưng đám dân này không biết Kinh Luật nên bị rủa sả là phải!” Trong nhóm Pha-ri-si có Ni-cô-đem là người đã đến gặp Ngài trước đây lên tiếng: “Luật lệ của chúng ta đâu cho phép kết án một người trước khi nghe đương sự cung khai và biết đương sự làm gì?” Họ đáp: “Ông cũng xuất thân từ Ga-li-lê sao? Cứ tra cứu Kinh Thánh ông sẽ thấy rõ rằng không một vị tiên tri nào của Chúa xuất thân từ Ga-li-lê cả!” Thế là mọi người bỏ đi, ai về nhà nấy.
A Woman Caught in Adultery
But Jesus went to the Mount of Olives. Early in the morning he came to the temple courts again. All the people came to him, and he sat down and began to teach them. The experts in the law and the Pharisees brought a woman who had been caught committing adultery. They made her stand in front of them and said to Jesus, “Teacher, this woman was caught in the very act of adultery. In the law Moses commanded us to stone to death such women. What then do you say?” (Now they were asking this in an attempt to trap him, so that they could bring charges against him.) Jesus bent down and wrote on the ground with his finger. When they persisted in asking him, he stood up straight and replied, “Whoever among you is guiltless may be the first to throw a stone at her.” Then he bent over again and wrote on the ground. Now when they heard this, they began to drift away one at a time, starting with the older ones, until Jesus was left alone with the woman standing before him. Jesus stood up straight and said to her, “Woman, where are they? Did no one condemn you?” She replied, “No one, Lord.” And Jesus said, “I do not condemn you either. Go, and from now on do not sin any more.” Then Jesus spoke out again, “I am the light of the world. The one who follows me will never walk in darkness, but will have the light of life.” So the Pharisees objected, “You testify about yourself; your testimony is not true!” Jesus answered, “Even if I testify about myself, my testimony is true, because I know where I came from and where I am going. But you people do not know where I came from or where I am going. You people judge by outward appearances; I do not judge anyone. But if I judge, my evaluation is accurate, because I am not alone when I judge, but I and the Father who sent me do so together. It is written in your law that the testimony of two men is true. I testify about myself and the Father who sent me testifies about me.” Then they began asking him, “Who is your father?” Jesus answered, “You do not know either me or my Father. If you knew me you would know my Father too.” (Jesus spoke these words near the offering box while he was teaching in the temple courts. No one seized him because his time had not yet come.) Then Jesus said to them again, “I am going away, and you will look for me but will die in your sin. Where I am going you cannot come.”So the Jewish leaders began to say, “Perhaps he is going to kill himself, because he says, ‘Where I am going you cannot come.’” Jesus replied, “You people are from below; I am from above. You people are from this world; I am not from this world. Thus I told you that you will die in your sins. For unless you believe that I am he, you will die in your sins.”So they said to him, “Who are you?” Jesus replied, “What I have told you from the beginning. I have many things to say and to judge about you, but the Father who sent me is truthful, and the things I have heard from him I speak to the world.” (They did not understand that he was telling them about his Father.) Then Jesus said, “When you lift up the Son of Man, then you will know that I am he, and I do nothing on my own initiative, but I speak just what the Father taught me. And the one who sent me is with me. He has not left me alone, because I always do those things that please him.” While he was saying these things, many people believed in him. Then Jesus said to those Judeans who had believed him, “If you continue to follow my teaching, you are really my disciples and you will know the truth, and the truth will set you free.” “We are descendants of Abraham,” they replied, “and have never been anyone’s slaves! How can you say, ‘You will become free’?” Jesus answered them, “I tell you the solemn truth, everyone who practices sin is a slave of sin. The slave does not remain in the family forever, but the son remains forever. So if the son sets you free, you will be really free. I know that you are Abraham’s descendants. But you want to kill me, because my teaching makes no progress among you. I am telling you the things I have seen while with the Father; as for you, practice the things you have heard from the Father!” They answered him, “Abraham is our father!” Jesus replied, “If you are Abraham’s children, you would be doing the deeds of Abraham. But now you are trying to kill me, a man who has told you the truth I heard from God. Abraham did not do this! You people are doing the deeds of your father.” Then they said to Jesus, “We were not born as a result of immorality! We have only one Father, God himself.” Jesus replied, “If God were your Father, you would love me, for I have come from God and am now here. I have not come on my own initiative, but he sent me. Why don’t you understand what I am saying? It is because you cannot accept my teaching. You people are from your father the devil, and you want to do what your father desires. He was a murderer from the beginning, and does not uphold the truth, because there is no truth in him. Whenever he lies, he speaks according to his own nature, because he is a liar and the father of lies. But because I am telling you the truth, you do not believe me. Who among you can prove me guilty of any sin? If I am telling you the truth, why don’t you believe me? The one who belongs to God listens and responds to God’s words. You don’t listen and respond, because you don’t belong to God.” The Judeans replied, “Aren’t we correct in saying that you are a Samaritan and are possessed by a demon?” Jesus answered, “I am not possessed by a demon, but I honor my Father – and yet you dishonor me. I am not trying to get praise for myself. There is one who demands it, and he also judges. I tell you the solemn truth, if anyone obeys my teaching, he will never see death.” Then the Judeans responded, “Now we know you’re possessed by a demon! Both Abraham and the prophets died, and yet you say, ‘If anyone obeys my teaching, he will never experience death.’ You aren’t greater than our father Abraham who died, are you? And the prophets died too! Who do you claim to be?” Jesus replied, “If I glorify myself, my glory is worthless. The one who glorifies me is my Father, about whom you people say, ‘He is our God.’ Yet you do not know him, but I know him. If I were to say that I do not know him, I would be a liar like you. But I do know him, and I obey his teaching. Your father Abraham was overjoyed to see my day, and he saw it and was glad.” Then the Judeans replied, “You are not yet fifty years old! Have you seen Abraham?” Jesus said to them, “I tell you the solemn truth, before Abraham came into existence, I am!” Then they picked up stones to throw at him, but Jesus hid himself and went out from the temple area.
Người Phụ Nữ Phạm Tội
Trong khi đó Đức Giê-su lên núi Ô-liu. Lúc trời vừa sáng, Ngài trở vào đền thờ. Cả đoàn dân đều đến với Ngài và Ngài ngồi xuống dạy dỗ họ. Các chuyên gia kinh luật và người Pha-ri-si giải đến một người đàn bà ngoại tình bắt đứng giữa họ. Họ nói với Ngài: “Thưa Thầy, người đàn bà nầy bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, nên chiếu theo luật Môi-se, những hạng đàn bà ấy phải bị ném đá xử tử, còn Thầy thì dạy thế nào?” Họ nói vậy cốt gài bẫy Chúa để có lý do cáo tội Ngài. Nhưng Đức Giê-su cúi xuống, lấy ngón tay viết lên mặt đất. Vì họ cứ hỏi mãi, nên Ngài đứng lên bảo: “Người nào trong các người chưa từng phạm tội, hãy ném đá người nầy trước đi!” Rồi Ngài lại cúi xuống viết lên mặt đất. Nghe vậy, họ lần lượt bỏ đi từng người một, người cao tuổi đi trước, để Ngài ở lại một mình với người đàn bà đang đứng đó. Đức Giê-su đứng lên hỏi: “Nầy, mấy người kia đâu cả rồi? Không ai kết tội chị sao?” Người đàn bà trả lời: “Thưa ông, không ai cả!” Đức Giê-su bảo: “Ta đây cũng không kết tội chị đâu; về đi, từ nay đừng phạm tội nữa! Đức Giê-su lại phán: “Chính Ta là ánh sáng của thế giới, người nào theo Ta sẽ không còn đi trong tối tăm nhưng có ánh sáng của sự sống.” Những người Pha-ri-si bắt bẻ: “Chính ông tự chứng thực cho mình, nên lời chứng đó không hợp lệ.” Đức Giê-su đáp lại: “Cho dù ta tự chứng thực cho mình, lời chứng của Ta vẫn hợp lệ vì Ta biết mình từ đâu đến và đang về đâu; còn các người không biết Ta từ đâu đến hay đang về đâu. Chính các người xét đoán theo cách người phàm, còn Ta chẳng xét đoán ai. Nhưng dù Ta có xét đoán đi nữa thì sự xét đoán của Ta vẫn hợp lệ, vì không phải của một mình Ta, nhưng cũng của Cha là Đấng đã sai Ta đến. Và như trong Kinh Luật của các người có chép lời chứng của hai người là hợp lệ. Chính Ta tự chứng thực cho Ta và Cha là Đấng đã sai Ta cũng chứng thực cho Ta nữa!” Họ hỏi lại Ngài: “Cha của ông đâu?” Đức Giê-su đáp: “Các người không biết Ta, cũng chẳng biết Cha Ta. Nếu các người biết Ta, các người hẳn đã biết Cha Ta rồi!” Đức Giê-su tuyên bố những lời nầy đang khi dạy trong đền thờ, gần nơi để các thùng tiền dâng; và không một ai bắt Ngài vì giờ của Ngài chưa đến. Đức Giê-su lại bảo họ: “Chính Ta sẽ ra đi còn các người sẽ tìm kiếm Ta, nhưng các người sẽ chết trong tội lỗi mình. Các người không thể đến được nơi Ta sắp đi!” Thế là người Do Thái bảo nhau: “Liệu ông ấy sắp tự vận hay sao mà nói: Nơi Ta đi, các người sẽ không thể nào đến được?” Ngài giải thích: “Các người xuất thân từ trần thế, còn Ta từ thượng giới; các người từ thế gian nầy mà ra, còn Ta thì không phải từ thế gian nầy. Vậy Ta bảo các người rằng các người sẽ chết mất trong tội lỗi mình, vì nếu các người không chịu tin Ta là Đấng Hằng Hữu, thì các người sẽ chết mất trong tội lỗi mình!” Họ thắc mắc: “Ông là ai?” Đức Giê-su trả lời: “Ta đã chẳng từng bảo các người từ lúc ban đầu sao? Ta có thể nói và phán xét nhiều điều về các người, nhưng vì Đấng đã sai Ta là chân thật, nên Ta chỉ cần thuật lại cho thế gian những gì Ta đã nghe nơi Ngài!” Họ không hiểu Đức Giê-su đã nói về Chúa Cha cho họ. Đức Giê-su tiếp lời: “Khi nào các người treo Con Người lên, lúc ấy các người mới biết rõ Ta chính là Đấng Hằng Hữu. Ta không tự mình làm một việc gì cả, nhưng chỉ truyền lại những gì Cha Ta đã dạy bảo Ta. Và Đấng sai Ta lúc nào cũng ở với Ta; Ngài chẳng bao giờ bỏ Ta một mình, vì Ta luôn làm đẹp lòng Ngài.” Khi Ngài nói những lời nầy, nhiều người tin theo Ngài. Đức Giê-su liền bảo những người Do Thái vừa tin theo Ngài rằng: “Nếu các người kiên trì trong đạo Ta dạy thì các người mới thật là môn đệ của Ta. Các người sẽ hiểu biết chân lý và chính chân lý đó sẽ giải phóng các người!” Họ gạn hỏi Ngài: “Chúng tôi là dòng giống Áp-ra-ham, chưa từng làm nô lệ ai, sao Thầy lại bảo chúng tôi sẽ được giải phóng?” Đức Giê-su đáp lại: “Thật vậy, Ta bảo các người: Người nào phạm tội là nô lệ cho tội lỗi. Làm thân nô lệ thì không ở đời trong nhà, làm con mới được ở luôn! Vậy, nếu Đức Con giải phóng các người, thì các người mới thật sự được tự do. Ta biết rõ các người là dòng giống Áp-ra-ham, vậy mà các người lại tìm cách giết Ta, chỉ vì lòng các người không dành một chỗ nào cho đạo Ta cả! Ta truyền lại những gì Ta thấy nơi Cha, còn các người thì làm những gì nghe được nơi cha mình.” Họ đáp: “Cha chúng tôi chính là Áp-ra-ham!” Đức Giê-su nói: “Nếu thật là con cháu Áp-ra-ham, các người hẳn đã hành động như Áp-ra-ham rồi! Đàng nầy các người lại tìm cách giết Ta, người đã nói cho các người sự thật nghe được từ Đức Chúa Trời. Áp-ra-ham chẳng làm chuyện đó bao giờ! Các người thường làm những việc cha mình chuyên làm!” Họ cãi: “Chúng tôi đây sinh ra đâu phải là thứ con hoang. Cha duy nhất của chúng tôi là Đức Chúa Trời.” Đức Giê-su tiếp: “Nếu Đức Chúa Trời thật là Cha của các người, hẳn các người đã yêu thương Ta vì chính Ta đã xuất thân từ Đức Chúa Trời và đang ở đây. Ta không tự mình đến đây nhưng chính Ngài đã sai Ta. Tại sao Ta nói mà các người không hiểu? Chỉ tại các người không hiểu nổi đạo Ta! Chính các người xuất thân từ cha mình là quỷ vương và các người làm theo dục vọng của cha mình. Từ ban đầu đến nay, hắn vẫn là tay giết người. Hắn không chịu đứng về phía sự thật, vì trong người hắn làm gì có sự thật! Khi hắn nói dối là hắn làm theo bản tính hắn, vì hắn chính là kẻ nói dối và là ông tổ của nói dối! Còn Ta đây nói lên sự thật, thế mà các người lại không chịu tin Ta. Có ai trong vòng các người vạch tội Ta được không? Ta nói sự thật mà các người vẫn không tin Ta? Người nào thuộc về Đức Chúa Trời thì nghe theo lời của Đức Chúa Trời. Sở dĩ các người không nghe chỉ vì các người không thuộc về Đức Chúa Trời.” Mấy người Do Thái gạn hỏi: “Chúng tôi bảo ông chính là hạng người Sa-ma-ri và đang bị quỷ ám, không đúng sao?” Đức Giê-su trả lời: “Ta đây chẳng có quỷ ma nào ám cả mà chỉ đang suy tôn Cha Ta, còn các người cứ nhục mạ Ta. Chính Ta không tìm vinh quang cho riêng mình, đã có Đấng lo tìm và định liệu cho Ta. Thật vậy, Ta bảo các người: Người nào vâng giữ đạo Ta sẽ không bao giờ chết!” Người Do Thái liền tiếp: “Bây giờ chúng tôi biết rõ ông bị quỷ ám thật rồi! Áp-ra-ham đã chết, các tiên tri của Chúa cũng không còn, vậy mà ông lại nói người nào vâng giữ đạo Ta sẽ không bao giờ chết. Chẳng lẽ ông hơn cả tổ Áp-ra-ham của chúng ta và các tiên tri đã qua đời rồi sao? Ông tự cho mình là ai?” Đức Giê-su đáp: “Nếu Ta tự tôn vinh ta thì chẳng vinh quang gì! Chính Cha Ta tôn vinh Ta. Ngài là Đấng các người vẫn xưng tụng là Đức Chúa Trời của mình, nhưng các người có biết Ngài đâu, còn chính Ta mới thật biết Ngài! Nếu Ta bảo Ta không biết Ngài, thì Ta cũng dối trá như các người. Nhưng Ta biết Ngài và vâng giữ đạo Ngài. Áp-ra-ham, tổ phụ các người từng hớn hở trông mong được thấy ngày của Ta, người đã thấy và mừng rỡ!” Mấy người Do Thái nói với Ngài: “Ông chưa đầy năm mươi tuổi mà đã thấy Áp-ra-ham rồi sao?” Đức Giê-su đáp: “Thật vậy, Ta bảo các người: Trước khi có Áp-ra-ham, Ta hằng hữu!” Họ liền lượm đá để ném chết Ngài. Nhưng Đức Giê-su lánh mặt, rời khỏi đền thờ.
Healing a Man Born Blind
Now as Jesus was passing by, he saw a man who had been blind from birth. His disciples asked him, “Rabbi, who committed the sin that caused him to be born blind, this man or his parents?” Jesus answered, “Neither this man nor his parents sinned, but he was born blind so that the acts of God may be revealed through what happens to him. We must perform the deeds of the one who sent me as long as it is daytime. Night is coming when no one can work. As long as I am in the world, I am the light of the world.” Having said this, he spat on the ground and made some mud with the saliva. He smeared the mud on the blind man’s eyes and said to him, “Go wash in the pool of Siloam” (which is translated “sent”). So the blind man went away and washed, and came back seeing. Then the neighbors and the people who had seen him previously as a beggar began saying, “Is this not the man who used to sit and beg?” Some people said, “This is the man!” while others said, “No, but he looks like him.” The man himself kept insisting, “I am the one!” So they asked him, “How then were you made to see?” He replied, “The man called Jesus made mud, smeared it on my eyes and told me, ‘Go to Siloam and wash.’ So I went and washed, and was able to see.” They said to him, “Where is that man?” He replied, “I don’t know.”They brought the man who used to be blind to the Pharisees. (Now the day on which Jesus made the mud and caused him to see was a Sabbath.) So the Pharisees asked him again how he had gained his sight. He replied, “He put mud on my eyes and I washed, and now I am able to see.” Then some of the Pharisees began to say, “This man is not from God, because he does not observe the Sabbath.” But others said, “How can a man who is a sinner perform such miraculous signs?” Thus there was a division among them. So again they asked the man who used to be blind, “What do you say about him, since he caused you to see?” “He is a prophet,” the man replied. Now the Jewish religious leaders refused to believe that he had really been blind and had gained his sight until at last they summoned the parents of the man who had become able to see. They asked the parents, “Is this your son, whom you say was born blind? Then how does he now see?” So his parents replied, “We know that this is our son and that he was born blind. But we do not know how he is now able to see, nor do we know who caused him to see. Ask him, he is a mature adult. He will speak for himself.” (His parents said these things because they were afraid of the Jewish religious leaders. For the Jewish leaders had already agreed that anyone who confessed Jesus to be the Christ would be put out of the synagogue. For this reason his parents said, “He is a mature adult, ask him.”) Then they summoned the man who used to be blind a second time and said to him, “Promise before God to tell the truth. We know that this man is a sinner.” He replied, “I do not know whether he is a sinner. I do know one thing – that although I was blind, now I can see.” Then they said to him, “What did he do to you? How did he cause you to see?” He answered, “I told you already and you didn’t listen. Why do you want to hear it again? You people don’t want to become his disciples too, do you?” They heaped insults on him, saying, “You are his disciple! We are disciples of Moses! We know that God has spoken to Moses! We do not know where this man comes from!” The man replied, “This is a remarkable thing, that you don’t know where he comes from, and yet he caused me to see! We know that God doesn’t listen to sinners, but if anyone is devout and does his will, God listens to him. Never before has anyone heard of someone causing a man born blind to see. If this man were not from God, he could do nothing.” They replied, “You were born completely in sinfulness, and yet you presume to teach us?” So they threw him out. Jesus heard that they had thrown him out, so he found the man and said to him, “Do you believe in the Son of Man?” The man replied, “And who is he, sir, that I may believe in him?” Jesus told him, “You have seen him; he is the one speaking with you.” [He said, “Lord, I believe,” and he worshiped him. Jesus said,] “For judgment I have come into this world, so that those who do not see may gain their sight, and the ones who see may become blind.” Some of the Pharisees who were with him heard this and asked him, “We are not blind too, are we?” Jesus replied, “If you were blind, you would not be guilty of sin, but now because you claim that you can see, your guilt remains.
Người Mù Được Chữa Lành
Dọc đường đi, Đức Giê-su thấy một người mù từ thuở sinh ra. Các môn đệ hỏi Ngài: “Thưa Thầy, vì tội của ai? Của anh này hay của cha mẹ mà anh phải chịu sinh ra mù lòa?” Đức Giê-su trả lời: “Chẳng phải vì anh ta hay ông bà cha mẹ anh phạm tội đâu, nhưng để việc làm của Đức Chúa Trời được thể hiện trong anh. Khi còn ban ngày, chúng ta phải làm những công tác của Đấng đã sai Ta đến, kẻo khi đêm xuống, không ai làm việc được nữa! Đang khi còn ở trần thế, Ta là ánh sáng cho nhân loại.” Nói xong, Ngài nhổ nước bọt xuống đất hòa bùn, rồi bôi vào mắt người mù và bảo: “Hãy đến rửa ở ao Si-lô-am”, Si-lô-am có nghĩa là “được sai đi”. Vì vậy người ấy đi ra ao, rửa, rồi trở lại thì được thấy rõ. Hàng xóm láng giềng và những người vẫn thường thấy anh ta ăn xin trước kia hỏi nhau: “Có phải anh nầy là người hay ngồi ăn xin không?” Một số thì bảo đúng là anh ta, số khác lại nói: “Không phải, một người nào đó giống hắn!” Anh ta lên tiếng: “Chính tôi đây mà!” Họ liền hỏi anh: “Vậy thì làm sao mắt anh sáng được?” Anh ta trả lời: “Một người tên là Giê-su hòa bùn bôi lên mắt tôi và bảo tôi đi đến ao Si-lô-am rửa cho sạch. Tôi đi rửa thì mắt được sáng.” Họ hỏi tiếp: “Người ấy ở đâu?” Anh ta trả lời: “Tôi không biết!”Họ dẫn người vốn bị mù đến các người Pha-ri-si. Hôm Đức Giê-su hòa bùn chữa cho người nầy sáng mắt là ngày Sa-bát. Người Pha-ri-si lại chất vấn: “Sao anh thấy được?” Anh ta trả lời: “Ông ấy bôi bùn lên mắt tôi, tôi đi rửa sạch thì thấy được!” Một vài người trong nhóm Pha-ri-si liền nói: “Người này không thể nào đến từ Đức Chúa Trời vì đã không kiêng giữ ngày Sa-bát.” Nhưng một số người khác lại lý luận: “Làm sao một người có tội có thể làm dấu lạ như vậy được?” Thế là họ chia phe chống nhau. Vậy nên những người Pha-ri-si vặn hỏi người mù một lần nữa: “Theo anh thì người đã chữa lành mắt anh là ai?” Anh ta đáp: “Người ấy phải là một vị tiên tri của Chúa.” Nhưng các người Do Thái không chịu tin rằng anh ta vốn mù lòa mà nay lại thấy được, cho đến khi họ đòi cha mẹ người có mắt vừa được sáng đến. Họ tra hỏi: “Đây có phải là con của ông bà đã bị mù lòa từ khi sinh ra không? Làm sao bây giờ nó thấy được?” Cha mẹ anh ta thưa: “Chúng tôi nhận đây chính là con chúng tôi mù lòa từ lúc mới sinh, nhưng làm sao nó thấy được thì chúng tôi không biết, hay ai mở mắt nó, chúng tôi cũng không hay. Các ông cứ hỏi nó, nó đã khôn lớn rồi, việc nó để nó khai!” Cha mẹ anh ta nói như vậy, vì sợ người Do Thái. Những người Do Thái đã quyết định khai trừ khỏi hội đường người nào xưng Đức Giê-su là Chúa Cứu Thế. Cho nên cha mẹ anh ta mới nói: “Nó đã khôn lớn rồi, cứ hỏi nó.” Họ lại đòi người vốn bị mù ra một lần nữa và bảo: “Có Trời chứng giám, chúng ta biết rõ hắn là một người tội lỗi!” Anh ta thưa lại: “Người nầy tội lỗi hay không, tôi không biết. Tôi chỉ biết một điều, trước tôi mù mà nay thấy được!” Họ hỏi tiếp: “Người đó đã làm gì cho anh? Làm thế nào mắt anh sáng được?” Anh ta thưa: “Tôi đã nói rồi mà các ông không chịu nghe. Sao các ông còn muốn nghe nữa? Chẳng lẽ chính các ông cũng muốn thành môn đệ của người sao?” Họ mắng anh ta: “Mầy mới là môn đệ của hắn, còn chúng ta là môn đệ của Môi-se! Chúng ta biết Đức Chúa Trời đã phán với Môi-se, còn người nầy chúng ta không biết gốc gác từ đâu.” Anh ta nói: “Chuyện lạ thật! Người đã làm cho mắt tôi sáng mà các ông lại không biết gốc gác từ đâu. Chúng ta đều biết Đức Chúa Trời chẳng nghe người có tội mà chỉ đoái nghe những người thờ kính Đức Chúa Trời và làm theo ý Ngài. Xưa nay, đời nào có chuyện một người mở mắt cho kẻ sinh ra mù lòa. Nếu người nầy không phải đến từ Đức Chúa Trời thì thế nào làm nổi chuyện nầy?” Họ đáp: “Mầy sinh ra tội lỗi đầy mình mà còn đòi dạy khôn chúng ta sao?” Rồi họ đuổi anh đi. Đức Giê-su nghe họ đuổi anh đi, nên tìm anh hỏi: “Anh có tin Con Người không?” Anh ta đáp: “Thưa ông, Con Người là ai để tôi tin?” Đức Giê-su bảo: “Anh đã thấy Con Người tận mắt và Người đang nói với anh đây chính là Đấng ấy!” Người ấy nói: “Lạy Chúa, con tin!” rồi thờ lạy Ngài. Đức Giê-su phán: “Ta đến để xét đoán thế gian: Khiến người mù sáng mắt, còn kẻ mắt sáng hóa nên mù lòa!” Mấy người Pha-ri-si có mặt ở đó nghe vậy liền hỏi: “Ông bảo chúng tôi mù cả sao?” Đức Giê-su đáp: “Nếu các người mù lòa thì chẳng có tội gì, nhưng vì các người cho mình sáng mắt nên tội vẫn còn!” 9
Jesus as the Good Shepherd
“I tell you the solemn truth, the one who does not enter the sheepfold by the door, but climbs in some other way, is a thief and a robber.The one who enters by the door is the shepherd of the sheep. The doorkeeper opens the door for him, and the sheep hear his voice. He calls his own sheep by name and leads them out. When he has brought all his own sheep out, he goes ahead of them, and the sheep follow him because they recognize his voice. They will never follow a stranger, but will run away from him, because they do not recognize the stranger’s voice.” Jesus told them this parable, but they did not understand what he was saying to them. So Jesus said to them again, “I tell you the solemn truth, I am the door for the sheep. All who came before me were thieves and robbers, but the sheep did not listen to them. I am the door. If anyone enters through me, he will be saved, and will come in and go out, and find pasture. The thief comes only to steal and kill and destroy; I have come so that they may have life, and may have it abundantly. “I am the good shepherd. The good shepherd lays down his life for the sheep. The hired hand, who is not a shepherd and does not own sheep, sees the wolf coming and abandons the sheep and runs away. So the wolf attacks the sheep and scatters them. Because he is a hired hand and is not concerned about the sheep, he runs away. “I am the good shepherd. I know my own and my own know me – just as the Father knows me and I know the Father – and I lay down my life for the sheep. I have other sheep that do not come from this sheepfold. I must bring them too, and they will listen to my voice, so that there will be one flock and one shepherd. This is why the Father loves me – because I lay down my life, so that I may take it back again. No one takes it away from me, but I lay it down of my own free will. I have the authority to lay it down, and I have the authority to take it back again. This commandment I received from my Father.” Another sharp division took place among the Jewish people because of these words. Many of them were saying, “He is possessed by a demon and has lost his mind! Why do you listen to him?” Others said, “These are not the words of someone possessed by a demon. A demon cannot cause the blind to see, can it?”Then came the feast of the Dedication in Jerusalem. It was winter, and Jesus was walking in the temple area in Solomon’s Portico. The Jewish leaders surrounded him and asked, “How long will you keep us in suspense? If you are the Christ, tell us plainly.” Jesus replied, “I told you and you do not believe. The deeds I do in my Father’s name testify about me. But you refuse to believe because you are not my sheep. My sheep listen to my voice, and I know them, and they follow me. I give them eternal life, and they will never perish; no one will snatch them from my hand. My Father, who has given them to me, is greater than all, and no one can snatch them from my Father’s hand. The Father and I are one.” The Jewish leaders picked up rocks again to stone him to death. Jesus said to them, “I have shown you many good deeds from the Father. For which one of them are you going to stone me?” The Jewish leaders replied, “We are not going to stone you for a good deed but for blasphemy, because you, a man, are claiming to be God.” Jesus answered, “Is it not written in your law, ‘I said, you are gods’?If those people to whom the word of God came were called ‘gods’ (and the scripture cannot be broken), do you say about the one whom the Father set apart and sent into the world, ‘You are blaspheming,’ because I said, ‘I am the Son of God’? If I do not perform the deeds of my Father, do not believe me. But if I do them, even if you do not believe me, believe the deeds, so that you may come to know and understand that I am in the Father and the Father is in me.” Then they attempted again to seize him, but he escaped their clutches. Jesus went back across the Jordan River again to the place where John had been baptizing at an earlier time, and he stayed there. Many came to him and began to say, “John performed no miraculous sign, but everything John said about this man was true!” And many believed in Jesus there.
Người Chăn Nhân Từ
Thật vậy, Ta bảo các người: “Kẻ nào không đi qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào ngả khác, là phường trộm cướp. Còn người nào đi qua cửa mới là người chăn chiên. Người gác cổng mở cửa cho người chăn và đàn chiên nhận ra tiếng người. Người chăn gọi đích danh từng con chiên mình để dẫn ra ngoài. Khi đàn chiên ra hết, người chăn đi trước, chiên theo sau, vì chiên quen tiếng người. “Thầy để chúng tôi hoang mang cho đến bao giờ? Nếu quả thật Chiên không theo người lạ nhưng bỏ chạy, vì chiên không quen tiếng người lạ.” Đức Giê-su dùng ngụ ngôn nầy nói với họ, nhưng họ không hiểu Ngài ngụ ý gì. Nên Đức Giê-su tiếp: “Thật vậy, Ta bảo các người: Chính Ta là cửa của chuồng chiên. Tất cả những kẻ đến trước Ta đều là phường trộm cướp, nên chiên không nghe theo họ. Chính Ta là cửa ra vào: Ai qua Ta mà vào sẽ được cứu. Người ấy vào, ra và tìm được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để cướp, giết và hủy diệt; còn Ta đã đến để chiên được sống và sống sung mãn. Ta là người chăn nhân từ. Người chăn nhân từ hy sinh tính mạng vì đàn chiên. Kẻ chăn thuê không phải là người chăn; chiên không thuộc về nó, nên thấy muông sói đến nó bỏ chiên chạy trốn; muông sói vồ bắt và đuổi chiên tan lạc. Vì là kẻ chăn thuê, nên nó chẳng quan tâm gì đến đàn chiên. Ta là người chăn nhân từ, Ta quen biết chiên Ta và chiên Ta quen biết Ta, cũng như Cha biết Ta và chính Ta biết Cha vậy. Ta hy sinh tính mạng mình vì đàn chiên. Ta còn những chiên khác chưa thuộc về đàn nầy, Ta phải đem chúng về nữa, và chúng sẽ nghe theo tiếng Ta. Như vậy, sẽ chỉ có một đàn chiên và một người chăn. Cha đã yêu thương Ta chính vì Ta chịu hy sinh tính mạng, rồi sau được lấy lại. Không ai cướp nổi mạng sống Ta, nhưng chính Ta tự hiến. Ta có quyền hy sinh tánh mạng và có quyền lấy lại. Đây là mạng lệnh Ta nhận từ Cha Ta.” Người Do Thái lại chia phe nghịch nhau vì những lời ấy. Trong vòng họ có nhiều người nói: “Hắn ta bị quỷ ám, điên rồi, các anh nghe hắn làm gì!” Một số khác lại bảo: “Người bị quỷ ám không thể nói được những lời lẽ ấy? Quỷ làm sao mở mắt người mù?” Lúc ấy nhằm lễ Cung Hiến tại Giê-ru-sa-lem. Trời vào tiết đông, Đức Giê-su đang đi dạo trong khuôn viên đền thờ, dưới hành lang Sa-lô-môn. Người Do Thái tụ họp quanh Ngài mà hỏi: Thầy là Chúa Cứu Thế, Thầy cứ nói thẳng cho chúng tôi đi!” Đức Giê-su đáp: “Ta bảo các người rồi mà các người vẫn không tin! Những công việc Ta nhân danh Cha Ta thực hiện, chính là bằng chứng cho Ta; thế mà các người cũng không tin, chỉ vì các người không phải là chiên của Ta! Chiên Ta nghe tiếng Ta, chính Ta quen biết chiên Ta và chiên theo Ta. Ta ban cho chiên Ta sự sống vĩnh phúc, chúng chẳng hư mất bao giờ, và không ai cướp đoạt chúng khỏi tay Ta. Cha Ta đã ban cho Ta. Ngài là Đấng quyền năng hơn cả; không ai cướp đoạt nổi khỏi tay Cha. Ta với Cha là một.” Mấy người Do Thái lại lượm đá để ném chết Ngài. Đức Giê-su bảo họ: “Những việc lành Ta đã làm đều từ Cha mà đến, vậy thì các người ném đá Ta vì việc gì?” Người Do Thái đáp: “Chúng tôi không ném đá ông vì việc lành ông làm nhưng vì ông phạm thượng: Ông là người mà tự cho mình là Đức Chúa Trời!” Đức Giê-su đáp: “Kinh Luật các người chẳng đã có câu: ‘Ta phán các ngươi là thần,’ hay sao? Vì Đức Chúa Trời có gọi những kẻ được Lời Ngài truyền dạy là thần và Lời của Đức Chúa Trời không thể bãi bỏ được, thì Đấng được Cha biệt riêng và sai đến trần gian chỉ nói: Ta là Con Đức Chúa Trời, tại sao các người tố cáo Người là phạm thượng? Nếu Ta không làm những công việc của Cha Ta, thì các người đừng tin Ta. Còn nếu Ta làm, thì dù các người không tin Ta, hãy tin công việc Ta, để các người dứt khoát nhận thức rằng Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha.” Họ lại tìm cách bắt Ngài, nhưng Ngài thoát khỏi tay họ. Ngài lại ra đi, qua bên kia sông Giô-đanh, đến nơi Giăng đã làm phép báp-tem trước đây và ở lại đó. Nhiều người đến với Ngài nói rằng: “Giăng không làm một dấu lạ nào, nhưng mọi điều Giăng đã nói về người nầy đều đúng cả!” Tại đó có nhiều người tin Ngài. 10
The Death of Lazarus
Now a certain man named Lazarus was sick. He was from Bethany, the village where Mary and her sister Martha lived. (Now it was Mary who anointed the Lord with perfumed oil and wiped his feet dry with her hair, whose brother Lazarus was sick.) So the sisters sent a message to Jesus, “Lord, look, the one you love is sick.” When Jesus heard this, he said, “This sickness will not lead to death, but to God’s glory, so that the Son of God may be glorified through it.” (Now Jesus loved Martha and her sister and Lazarus.) So when he heard that Lazarus was sick, he remained in the place where he was for two more days. Then after this, he said to his disciples, “Let us go to Judea again.” The disciples replied, “Rabbi, the Jewish leaders were just now trying to stone you to death! Are you going there again?” Jesus replied, “Are there not twelve hours in a day? If anyone walks around in the daytime, he does not stumble, because he sees the light of this world. But if anyone walks around at night, he stumbles, because the light is not in him.”After he said this, he added, “Our friend Lazarus has fallen asleep. But I am going there to awaken him.” Then the disciples replied, “Lord, if he has fallen asleep, he will recover.” (Now Jesus had been talking about his death, but they thought he had been talking about real sleep.) Then Jesus told them plainly, “Lazarus has died, and I am glad for your sake that I was not there, so that you may believe. But let us go to him.” So Thomas (called Didymus) said to his fellow disciples, “Let us go too, so that we may die with him.” When Jesus arrived, he found that Lazarus had been in the tomb four days already. (Now Bethany was less than two miles from Jerusalem, so many of the Jewish people of the region had come to Martha and Mary to console them over the loss of their brother.) So when Martha heard that Jesus was coming, she went out to meet him, but Mary was sitting in the house. Martha said to Jesus, “Lord, if you had been here, my brother would not have died. But even now I know that whatever you ask from God, God will grant you.” Jesus replied, “Your brother will come back to life again.” Martha said, “I know that he will come back to life again in the resurrection at the last day.” Jesus said to her, “I am the resurrection and the life. The one who believes in me will live even if he dies, and the one who lives and believes in me will never die. Do you believe this?” She replied, “Yes, Lord, I believe that you are the Christ, the Son of God who comes into the world.” And when she had said this, Martha went and called her sister Mary, saying privately, “The Teacher is here and is asking for you.” So when Mary heard this, she got up quickly and went to him. (Now Jesus had not yet entered the village, but was still in the place where Martha had come out to meet him.) Then the people who were with Mary in the house consoling her saw her get up quickly and go out. They followed her, because they thought she was going to the tomb to weep there. Now when Mary came to the place where Jesus was and saw him, she fell at his feet and said to him, “Lord, if you had been here, my brother would not have died.” When Jesus saw her weeping, and the people who had come with her weeping, he was intensely moved in spirit and greatly distressed. He asked, “Where have you laid him?” They replied, “Lord, come and see.” Jesus wept. Thus the people who had come to mourn said, “Look how much he loved him!” But some of them said, “This is the man who caused the blind man to see! Couldn’t he have done something to keep Lazarus from dying?” Jesus, intensely moved again, came to the tomb. (Now it was a cave, and a stone was placed across it.) Jesus said, “Take away the stone.” Martha, the sister of the deceased, replied, “Lord, by this time the body will have a bad smell, because he has been buried four days.” Jesus responded, “Didn’t I tell you that if you believe, you would see the glory of God?” So they took away the stone. Jesus looked upward and said, “Father, I thank you that you have listened to me. I knew that you always listen to me, but I said this for the sake of the crowd standing around here, that they may believe that you sent me.” When he had said this, he shouted in a loud voice, “Lazarus, come out!” The one who had died came out, his feet and hands tied up with strips of cloth, and a cloth wrapped around his face. Jesus said to them, “Unwrap him and let him go.” Then many of the people, who had come with Mary and had seen the things Jesus did, believed in him. But some of them went to the Pharisees and reported to them what Jesus had done. So the chief priests and the Pharisees called the council together and said, “What are we doing? For this man is performing many miraculous signs. If we allow him to go on in this way, everyone will believe in him, and the Romans will come and take away our sanctuary and our nation.” Then one of them, Caiaphas, who was high priest that year, said, “You know nothing at all!You do not realize that it is more to your advantage to have one man die for the people than for the whole nation to perish.” (Now he did not say this on his own, but because he was high priest that year, he prophesied that Jesus was going to die for the Jewish nation, and not for the Jewish nation only, but to gather together into one the children of God who are scattered.) So from that day they planned together to kill him. Thus Jesus no longer went around publicly among the Judeans, but went away from there to the region near the wilderness, to a town called Ephraim, and stayed there with his disciples. Now the Jewish feast of Passover was near, and many people went up to Jerusalem from the rural areas before the Passover to cleanse themselves ritually. Thus they were looking for Jesus, and saying to one another as they stood in the temple courts, “What do you think? That he won’t come to the feast?” (Now the chief priests and the Pharisees had given orders that anyone who knew where Jesus was should report it, so that they could arrest him.)
Sự Sống Lại Của La-xa-rơ
Có một người bị đau tên là La-xa-rơ quê ở Bê-tha-ni, là làng của hai chị em Ma-thê và Ma-ri. Ma-ri là người đã đổ dầu thơm xức cho Chúa, rồi lấy tóc mình lau chân Ngài; còn La-xa-rơ, anh nàng, đang bị bệnh. Hai chị em liền sai người đến trình: “Thưa Chúa, người Chúa yêu mến đang đau.” Nhưng khi nghe tin, Đức Giê-su lại bảo: “Bệnh nầy không đến nỗi phải chết, nhưng việc xảy ra để Đức Chúa Trời được hiển vinh và Con của Ngài cũng nhờ đó được hiển vinh!” Đức Giê-su yêu quý các chị em Ma-thê, em nàng và La-xa-rơ. Nhưng khi nghe tin La-xa-rơ đau, Ngài nán lại nơi đang ở thêm hai ngày nữa! Sau đó, Ngài bảo các môn đệ: “Chúng ta hãy trở lại vùng Giu-đê!” Các môn đệ nói: “Thưa Thầy, người Do Thái mới vừa tìm ném đá Thầy mà bây giờ Thầy còn trở lại đó sao?” Đức Giê-su đáp: “Chẳng phải ban ngày có mười hai giờ sao? Người nào đi giữa ban ngày sẽ không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế giới này. Nhưng nếu đi trong đêm tối sẽ vấp ngã vì không có ánh sáng!” Rồi Ngài nói tiếp: “La-xa-rơ, bạn của chúng ta đang ngủ, nhưng Ta sắp đến đánh thức người dậy.” Các môn đệ nói: “Thưa Chúa, nếu anh ấy ngủ chắc sẽ khỏi bệnh!” Nhưng Đức Giê-su ngụ ý La-xa-rơ đã chết rồi, còn họ lại tưởng Ngài nói về giấc ngủ thường. Cho nên Đức Giê-su mới nói rõ rằng: “La-xa-rơ đã chết rồi! Nhưng vì các con, Ta mừng đã không có mặt ở đó để các con tin. Thôi, chúng ta hãy đi đến cùng người!” Thô-ma, còn có tên Đi-đim, nghĩa là “sinh đôi”, bảo đồng bạn: “Chúng ta hãy cùng đi, dù phải chết thì chết chung với Thầy!” Đến nơi, Đức Giê-su thấy người ta chôn cất La-xa-rơ trong mộ đã bốn ngày rồi! Bê-tha-ni gần Giê-ru-sa-lem, chỉ cách chừng ba cây số, nên có nhiều người Do Thái trong vùng đến thăm để chia buồn với Ma-thê và Ma-ri. Khi nghe tin Đức Giê-su đến, Ma-thê đi ra đón Ngài, còn Ma-ri vẫn ngồi ở nhà. Ma-thê nói với Đức Giê-su: “Thưa Chúa, nếu Chúa có ở đây, anh con chắc đã không chết! Nhưng con vẫn biết dù bây giờ Ngài cầu xin bất cứ việc gì, Đức Chúa Trời cũng ban cho Ngài cả!” Đức Giê-su bảo nàng: “Anh con sẽ sống lại!” Ma-thê đáp: “Con biết anh ấy sẽ sống lại trong sự phục sinh vào ngày cuối cùng!” Đức Giê-su bảo: “Chính Ta là sự sống lại và sự sống, người nào tin Ta, dù có chết, cũng sẽ sống. Còn ai sống mà tin Ta sẽ chẳng bao giờ chết, con tin điều ấy không?” Nàng đáp: “Vâng, lạy Chúa, con tin! Con tin Ngài chính là Chúa Cứu Thế, Con của Đức Chúa Trời, Đấng phải đến trần gian!” Nói xong, Ma-thê trở về, gọi Ma-ri ra nói nhỏ: “Thầy đến rồi, đang gọi em đó!” Nghe vậy, Ma-ri vội vàng đứng dậy, đi đến gặp Ngài. Lúc ấy Đức Giê-su chưa vào làng nhưng vẫn còn ở tại chỗ Ma-thê vừa gặp Ngài. Mấy người Do Thái đang ở trong nhà an ủi Ma-ri, thấy nàng vội đứng dậy đi ra ngoài, tưởng nàng đến mộ than khóc anh, nên đi theo. Đến nơi, khi thấy Đức Giê-su, Ma-ri quỳ dưới chân Ngài nói: “Thưa Chúa, nếu Chúa có ở đây, anh con đã không chết!” Đức Giê-su thấy Ma-ri khóc và những người Do Thái cùng đi với nàng cũng khóc, thì bùi ngùi xúc động, liền hỏi: “Các người chôn cất anh ấy ở đâu?” Họ đáp: “Thưa Chúa, mời Ngài đến xem!” Đức Giê-su khóc! Mấy người Do Thái bảo nhau: “Kìa, ông ấy thương La-xa-rơ quá!” Nhưng cũng có vài người nói: “Ông ta đã làm cho mắt người mù được sáng, lại không có thể làm cho người này khỏi chết sao?” Đức Giê-su lại xúc động, bước đến trước mộ. Đây là một cái hang có tảng đá lớn chận trước cửa. Đức Giê-su bảo: “Hãy lăn tảng đá ra!” Ma-thê, em gái người chết nói: “Thưa Chúa, đã có mùi vì người chết đã bốn ngày rồi!” Đức Giê-su bảo Ma-thê: “Ta đã chẳng bảo con rằng nếu có lòng tin, con sẽ thấy vinh quang của Đức Chúa Trời sao?” Họ lăn tảng đá ra. Đức Giê-su ngước mắt lên cầu xin: “Thưa Cha, con cảm ơn Cha vì đã nhậm lời con! Con biết Cha luôn luôn nghe lời con cầu xin, nhưng con phải nói ra vì đám đông đang đứng quanh đây, để họ tin rằng chính Cha đã sai con đến!” Sau đó, Ngài gọi lớn tiếng: “La-xa-rơ! Hãy ra đây!” Người chết đi ra, tay chân vẫn còn quấn vải liệm, mặt còn phủ khăn. Đức Giê-su bảo họ: “Hãy tháo ra cho anh ấy đi!” Nhiều người Do Thái đến thăm Ma-ri, thấy việc Ngài làm, thì tin Ngài; nhưng vài người trong đám họ đi đến các người Pha-ri-si, thuật lại việc Đức Giê-su đã làm. Các thượng tế và nhóm Pha-ri-si liền họp hội đồng bảo nhau: “Người nầy làm quá nhiều dấu lạ, chúng ta phải tính sao đây? Nếu chúng ta cứ để yên như vậy, mọi người sẽ tin theo hắn, rồi quân La Mã sẽ đến chiếm nơi nầy và cả quê hương xứ sở chúng ta!” Nhưng một người trong nhóm là Cai-pha, đang giữ chức vụ trưởng tế năm đó, lý luận: “Quý vị chẳng hiểu gì cả! Sao không nghiệm ra rằng: Thà để một người chết thay cho toàn dân hơn là cả dân tộc bị hủy diệt?” Không phải ông ta tự mình thốt ra như vậy, nhưng vì là vị trưởng tế, nên ông nói tiên tri về việc Đức Giê-su sắp phải chết vì dân; chẳng những vì dân thôi đâu, mà còn để hợp nhất các con cái của Đức Chúa Trời đang bị tản lạc. Từ ngày đó trở đi, họ âm mưu giết Ngài. Vì vậy, Đức Giê-su không còn công khai đi lại giữa vòng người Do Thái, nhưng lánh đến vùng gần đồng hoang, vào một thành tên Ép-ra-im, ở đó với các môn đệ Ngài. Lúc ấy, gần đến ngày lễ Vượt Qua của người Do Thái, dân chúng từ khắp các miền lên Giê-ru-sa-lem để chịu thanh tẩy trước kỳ lễ. Họ trông ngóng Đức Giê-su nên tụ họp trong đền thờ hỏi nhau: “Anh em đoán sao? Chắc ông ấy sẽ không lên dự lễ đâu, phải không?” Các thượng tế và nhóm Pha-ri-si đã ra lệnh, hễ ai biết Ngài ở đâu, phải báo cho họ biết để họ bắt Ngài.
Jesus’ Anointing
Then, six days before the Passover, Jesus came to Bethany, where Lazarus lived, whom he had raised from the dead. So they prepared a dinner for Jesus there. Martha was serving, and Lazarus was among those present at the table with him. Then Mary took three quarters of a pound of expensive aromatic oil from pure nard and anointed the feet of Jesus. She then wiped his feet dry with her hair. (Now the house was filled with the fragrance of the perfumed oil.) But Judas Iscariot, one of his disciples (the one who was going to betray him) said, “Why wasn’t this oil sold for three hundred silver coins and the money given to the poor?” (Now Judas said this not because he was concerned about the poor, but because he was a thief. As keeper of the money box, he used to steal what was put into it.) So Jesus said, “Leave her alone. She has kept it for the day of my burial. For you will always have the poor with you, but you will not always have me!”Now a large crowd of Judeans learned that Jesus was there, and so they came not only because of him but also to see Lazarus whom he had raised from the dead. So the chief priests planned to kill Lazarus too, for on account of him many of the Jewish people from Jerusalem were going away and believing in Jesus.
Chúa Được Xức Dầu
Nhưng sáu ngày trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su vẫn đến Bê-tha-ni, nơi có La-xa-rơ, người mà Đức Giê-su đã khiến sống lại. Người ta làm tiệc đãi Chúa tại đó. Ma-thê hầu bàn, còn La-xa-rơ cùng những người khác dự tiệc với Ngài. Lúc ấy, Ma-ri lấy ra một cân dầu cam tùng tinh chất quý giá xức chân Đức Giê-su và lấy tóc mình lau chân Ngài. Mùi thơm tỏa khắp nhà. Nhưng Giu-đa Ích-ca-ri-ốt, môn đệ sau nầy phản Chúa, lên tiếng: “Sao không đem dầu nầy đi bán, lấy ba trăm đồng đê-na- ri để bố thí cho kẻ nghèo?” Anh ta nói vậy chẳng phải vì quan tâm gì đến người nghèo, nhưng vì vốn là tay trộm cắp mà lại giữ túi tiền, nên hễ có tiền vào là anh lấy bớt. Nhưng Đức Giê-su bảo: “Cứ để mặc nàng, vì nàng đã để dành dầu này cho ngày tẩm liệm Ta! Vì các ngươi lúc nào cũng có người nghèo bên mình, nhưng không có Ta luôn đâu!” Khi người Do Thái biết Đức Giê-su đang có mặt ở đó, họ liền kéo đến thật đông, không những để gặp Ngài, mà cũng để xem La-xa-rơ, người mà Ngài đã khiến sống lại. Nhưng các thượng tế bàn định với nhau để giết cả La-xa-rơ nữa, vì tại ông, nhiều người Do Thái đã bỏ họ mà tin theo Đức Giê-su.
Jesus’ Triumphal Entry into Jerusalem
The next day the large crowd that had come to the feast heard that Jesus was coming to Jerusalem. So they took branches of palm trees and went out to meet him. They began to shout, “Hosanna!Blessed is the one who comes in the name of the Lord!Blessed is the king of Israel!” Jesus found a young donkey and sat on it, just as it is written, “Do not be afraid, people of Zion; look, your king is coming, seated on a donkey’s colt!” (His disciples did not understand these things when they first happened, but when Jesus was glorified, then they remembered that these things were written about him and that these things had happened to him.) So the crowd who had been with him when he called Lazarus out of the tomb and raised him from the dead were continuing to testify about it. Because they had heard that Jesus had performed this miraculous sign, the crowd went out to meet him. Thus the Pharisees said to one another, “You see that you can do nothing. Look, the world has run off after him!”Now some Greeks were among those who had gone up to worship at the feast. So these approached Philip, who was from Bethsaida in Galilee, and requested, “Sir, we would like to see Jesus.” Philip went and told Andrew, and they both went and told Jesus. Jesu replied, “The time has come for the Son of Man to be glorified. I tell you the solemn truth, unless a kernel of wheat falls into the ground and dies, it remains by itself alone. But if it dies, it produces much grain. The one who loves his life destroys it, and the one who hates his life in this world guards it for eternal life. If anyone wants to serve me, he must follow me, and where I am, my servant will be too. If anyone serves me, the Father will honor him. “Now my soul is greatly distressed. And what should I say? ‘Father, deliver me from this hour’? No, but for this very reason I have come to this hour. Father, glorify your name.” Then a voice came from heaven, “I have glorified it, and I will glorify it again.” The crowd that stood there and heard the voice said that it had thundered. Others said that an angel had spoken to him. Jesus said, “This voice has not come for my benefit but for yours. Now is the judgment of this world; now the ruler of this world will be driven out. And I, when I am lifted up from the earth, will draw all people to myself.” (Now he said this to indicate clearly what kind of death he was going to die.) Then the crowd responded, “We have heard from the law that the Christ will remain forever. How can you say, ‘The Son of Man must be lifted up’? Who is this Son of Man?” Jesus replied, “The light is with you for a little while longer. Walk while you have the light, so that the darkness may not overtake you. The one who walks in the darkness does not know where he is going. While you have the light, believe in the light, so that you may become sons of light.” When Jesus had said these things, he went away and hid himself from them.Although Jesus had performed so many miraculous signs before them, they still refused to believe in him, so that the word of Isaiah the prophet would be fulfilled. He said, “Lord, who has believed our message, and to whom has the arm of the Lord been revealed?” For this reason they could not believe, because again Isaiah said, “He has blinded their eyes and hardened their heart, so that they would not see with their eyes and understand with their heart, and turn to me, and I would heal them. Isaiah said these things because he saw Christ’s glory, and spoke about him. Nevertheless, even among the rulers many believed in him, but because of the Pharisees they would not confess Jesus to be the Christ, so that they would not be put out of the synagogue. For they loved praise from men more than praise from God. But Jesus shouted out, “The one who believes in me does not believe in me, but in the one who sent me, and the one who sees me sees the one who sent me. I have come as a light into the world, so that everyone who believes in me should not remain in darkness. If anyone hears my words and does not obey them, I do not judge him. For I have not come to judge the world, but to save the world. The one who rejects me and does not accept my words has a judge; the word I have spoken will judge him at the last day. For I have not spoken from my own authority, but the Father himself who sent me has commanded me what I should say and what I should speak. And I know that his commandment is eternal life. Thus the things I say, I say just as the Father has told me.”
Chúa Giê-su Vào Thành Giê-ru-sa-lem
Hôm sau, nghe tin Đức Giê-su cũng lên Giê-ru-sa-lem, đoàn người đông đảo đã về dự lễ, lấy cành chà là ra đón Ngài, tung hô: “Hô-sa-na! Phước cho Đấng nhân danh Chúa mà đến! Vua của Y-sơ-ra-ên!” Tìm được một con lừa con, Đức Giê-su cưỡi lên đúng như Kinh Thánh chép: “Con gái thành Si-ôn đừng sợ nữa! Kìa, Vua ngươi ngự đến, Cưỡi lừa con!” Lúc đầu các môn đệ Ngài chưa hiểu rõ, nhưng về sau, khi Đức Giê-su được hiển vinh, họ mới nhớ lại câu Kinh Thánh trên viết về Ngài và thấy ứng nghiệm đúng cho Ngài. Nhóm người có mặt lúc Ngài gọi La-xa-rơ ra khỏi mộ và khiến ông sống lại cứ tiếp tục làm chứng về việc nầy. Cũng chính vì nghe nói Ngài làm dấu lạ đó mà đoàn dân đông đảo đã ra nghênh đón Ngài. Nhưng nhóm Pha-ri-si bảo nhau: “Thấy chưa? Các ông chẳng được tích sự gì! Kìa, cả thiên hạ đều kéo theo Người!” Nhân kỳ lễ nầy cũng có mấy người Hy Lạp trong số khách hành hương lên thờ phượng Đức Chúa Trời. Họ đến gặp Phi-líp, người thành Bết-sai-đa, vùng Ga-li-lê, mà thỉnh cầu: “Thưa ông, chúng tôi mong được gặp Đức Giê-su!” Phi-líp đi nói với An-rê, rồi cả An-rê và Phi-líp cùng đến thưa lại với Đức Giê-su. Đức Giê-su đáp: “Giờ phút hiển vinh của Con Người đã đến! Thật vậy, Ta bảo các con: Hạt giống lúa mì gieo xuống đất không chết đi thì hạt giống vẫn hoàn hạt giống, còn nếu chết đi thì mới kết quả thêm nhiều! Ai quý chuộng mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều bỏ mạng sống mình ở đời nầy sẽ giữ lại được trong cõi sống vĩnh phúc! Người nào phục vụ Ta thì phải theo Ta. Ta ở đâu thì kẻ phục vụ Ta cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Ta sẽ được Cha Ta quý trọng. Giờ đây, tâm hồn Ta phiền não. Ta sẽ nói làm sao? Thưa Cha, xin cứu con khỏi giờ phút nầy! Nhưng cũng chính vì giờ phút nầy, nên Con đã đến? Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha!” Bỗng có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh rồi, lại còn tôn vinh nữa!” Đoàn dân đứng quanh nghe tiếng nói thì bảo là sấm. Những người khác lại nói: “Một thiên sứ vừa nói chuyện với Ngài đó!” Đức Giê-su bảo: “Tiếng nầy vọng xuống chính vì các người chứ chẳng phải vì Ta! Thế gian này đã đến lúc bị xét xử, vua chúa đời này đã đến thời bị truất quyền. Còn phần Ta, khi thân bị treo lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người đến cùng Ta!” Đức Giê-su bảo vậy để ám chỉ Ngài sắp chịu chết cách nào. Đoàn dân nói lại: “Chính chúng tôi có nghe Kinh Luật dạy rằng Chúa Cứu Thế còn mãi muôn đời, sao Thầy lại nói Con Người phải bị treo thân? Con Người đó là ai vậy?” Đức Giê-su đáp: “Ánh sáng chỉ còn soi giữa các người ít lâu nữa mà thôi! Hãy bước đi trong khi các người còn có ánh sáng kẻo bóng tối bất chợt bao trùm các người! Người đi trong tối tăm không biết mình đi đâu. Hãy tin cậy nơi ánh sáng trong khi các người còn có ánh sáng để được trở thành con cái của ánh sáng.” Dạy bảo xong, Đức Giê-su ẩn mặt, lánh xa họ. Ngài đã làm bao nhiêu dấu lạ trước mặt họ như vậy mà họ vẫn không chịu tin Ngài, để cho lời tiên tri I-sa được ứng nghiệm: “Lạy Chúa, ai đã tin nhận lời chúng con tường trình, và cánh tay Chúa đã được tỏ cho ai?” Sở dĩ họ không thể nào tin được là vì I-sa đã nói: “Chúa đã làm cho mắt họ mù lòa, Cho lòng họ chai đá, để có mắt mà không thấy, có tâm trí mà không hiểu, và cũng chẳng hoán cải để Ta chữa lành họ!” I-sa nói những điều nầy là nói về chính Chúa, vì ông đã được trông thấy vinh quang Ngài. Dù sao, cũng có nhiều người trong giới lãnh đạo tin Ngài, nhưng vì cớ người Pha-ri-si, họ không dám tuyên xưng, sợ bị khai trừ khỏi hội đường; và vì họ coi trọng vinh quang của loài người hơn vinh quang từ Đức Chúa Trời Đức Giê-su lên tiếng tuyên bố: “Người nào tin Ta, thật ra không phải chỉ tin Ta, nhưng tin Đấng đã sai Ta đến. Còn người nào thấy Ta chính là thấy Đấng đã sai Ta. Ta đã đến làm ánh sáng cho thế gian để những ai tin Ta không còn ở trong tối tăm nữa! Nếu ai nghe lời Ta mà không vâng giữ, thì không phải Ta kết án kẻ ấy, vì Ta đến không phải để kết án, nhưng để cứu vớt thế gian. Ai khước từ Ta và không tiếp nhận lời Ta thì đã có biện pháp xét xử rồi; chính lời Ta phán dạy sẽ kết án họ trong ngày sau cùng. Vì Ta không tự mình giảng dạy, nhưng Cha là Đấng sai Ta đã truyền cho Ta điều răn phải giảng và phải dạy. Ta biết điều răn Ngài là sự sống vĩnh phúc. Vậy, những lời,Ta nói đều do Cha truyền bảo Ta phải nói.” 12
Washing the Disciples’ Feet
Just before the Passover feast, Jesus knew that his time had come to depart from this world to the Father. Having loved his own who were in the world, he now loved them to the very end. The evening meal was in progress, and the devil had already put into the heart of Judas Iscariot, Simon’s son, that he should betray Jesus. Because Jesus knew that the Father had handed all things over to him, and that he had come from God and was going back to God, he got up from the meal, removed his outer clothes, took a towel and tied it around himself. He poured water into the wash basin and began to wash the disciples’ feet and to dry them with the towel he had wrapped around himself. Then he came to Simon Peter. Peter said to him, “Lord, are you going to wash my feet?” Jesus replied, “You do not understand what I am doing now, but you will understand after these things.” Peter said to him, “You will never wash my feet!” Jesus replied, “If I do not wash you, you have no share with me.” Simon Peter said to him, “Lord, wash not only my feet, but also my hands and my head!” Jesus replied, “The one who has bathed needs only to wash his feet, but is completely clean. And you disciples are clean, but not every one of you.” (For Jesus knew the one who was going to betray him. For this reason he said, “Not every one of you is clean.”) So when Jesus had washed their feet and put his outer clothing back on, he took his place at the table again and said to them, “Do you understand what I have done for you? You call me ‘Teacher’ and ‘Lord,’ and do so correctly, for that is what I am. If I then, your Lord and Teacher, have washed your feet, you too ought to wash one another’s feet. For I have given you an example – you should do just as I have done for you. I tell you the solemn truth, the slave is not greater than his master, nor is the one who is sent as a messenger greater than the one who sent him. If you understand these things, you will be blessed if you do them.
Chúa Rửa Chân Cho Các Môn Đệ
Trước kỳ lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết là đã đến lúc Ngài phải rời thế gian để trở về cùng Cha. Ngài đã yêu những người của mình trong thế gian, thì Ngài cứ yêu cho đến cuối cùng.Trong bữa ăn tối, quỷ vương đã gieo vào lòng Giu-đa, con của Si-môn Ích-ca-ri-ốt, ý tưởng phản bội Ngài. Ngài biết Cha đã trao mọi sự vào tay mình; vì Ngài đã đến từ Đức Chúa Trời lại sắp trở về cùng Đức Chúa Trời, nên Ngài đứng dậy khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài ra, quấn khăn ngang lưng, rồi đổ nước vào chậu, bắt đầu rửa chân cho các môn đệ. Rửa xong, Ngài lấy khăn đã quấn ngang lưng mà lau. Khi đến Si-môn Phê-rơ, ông thưa: “Chúa ơi! Chúa mà lại rửa chân cho con sao?” Đức Giê-su trả lời: “Việc Ta làm bây giờ con chưa hiểu nhưng sau này sẽ rõ.” Phê-rơ thưa lại: “Đời nào con để Chúa rửa chân cho con!” Đức Giê-su đáp: “Nếu không để Ta rửa, con sẽ không có phần gì với Ta cả.” Phê-rơ thưa: “Lạy Chúa, thế thì chẳng những chỉ rửa chân thôi mà còn cả tay và đầu nữa.” Đức Giê-su dạy: “Người tắm rồi thì thân thể đã sạch, nên chỉ cần rửa chân thôi. Các con đã sạch rồi, nhưng không phải tất cả đều trong sạch.” Vì Chúa đã rõ ai là người sẽ phản bội Ngài, nên mới nói có người chưa trong sạch. Sau khi đã rửa chân các môn đệ xong, Ngài mặc lại áo ngoài, trở về bàn ăn và hỏi họ: “Các con có hiểu việc Ta vừa làm cho các con không? Các con xưng Ta là Thầy là Chúa, phải lắm, vì chính Ta đúng là như vậy. Đã là Thầy là Chúa mà Ta còn rửa chân cho các con, thì chính các con cũng phải rửa chân cho nhau. Ta đã làm như vậy cốt để làm gương cho các con noi theo. Thật vậy, Ta bảo các con: ‘Tớ không hơn chủ, sứ giả không hơn người sai phái mình.’ Các con biết những điều này và đem ra thực hành thì được phước
The Announcement of Jesus’ Betrayal
“What I am saying does not refer to all of you. I know the ones I have chosen. But this is to fulfill the scripture, ‘The one who eats my bread has turned against me.’ I am telling you this now, before it happens, so that when it happens you may believe that I am he. I tell you the solemn truth, whoever accepts the one I send accepts me, and whoever accepts me accepts the one who sent me.” When he had said these things, Jesus was greatly distressed in spirit, and testified, “I tell you the solemn truth, one of you will betray me.” The disciples began to look at one another, worried and perplexed to know which of them he was talking about. One of his disciples, the one Jesus loved, was at the table to the right of Jesus in a place of honor. So Simon Peter gestured to this disciple to ask Jesus who it was he was referring to. Then the disciple whom Jesus loved leaned back against Jesus’ chest and asked him, “Lord, who is it?” Jesus replied, “It is the one to whom I will give this piece of bread after I have dipped it in the dish.” Then he dipped the piece of bread in the dish and gave it to Judas Iscariot, Simon’s son. And after Judas took the piece of bread, Satan entered into him. Jesus said to him, “What you are about to do, do quickly.” (Now none of those present at the table understood why Jesus said this to Judas. Some thought that, because Judas had the money box, Jesus was telling him to buy whatever they needed for the feast, or to give something to the poor.) Judas took the piece of bread and went out immediately. (Now it was night.)When Judas had gone out, Jesus said, “Now the Son of Man is glorified, and God is glorified in him. If God is glorified in him, God will also glorify him in himself, and he will glorify him right away. Children, I am still with you for a little while. You will look for me, and just as I said to the Jewish religious leaders, ‘Where I am going you cannot come,’ now I tell you the same. “I give you a new commandment – to love one another. Just as I have loved you, you also are to love one another. Everyone will know by this that you are my disciples – if you have love for one another.” Simon Peter said to him, “Lord, where are you going?” Jesus replied, “Where I am going, you cannot follow me now, but you will follow later.” Peter said to him, “Lord, why can’t I follow you now? I will lay down my life for you!” Jesus answered, “Will you lay down your life for me? I tell you the solemn truth, the rooster will not crow until you have denied me three times!
Chúa Báo Trước Về Sự Phản Bội Ngài
Ta không nói về tất cả các con đâu. Ta biết rõ những người Ta chọn, nhưng lời Kinh Thánh này phải ứng nghiệm: ‘Kẻ từng ăn bánh của Ta đã trở gót phản bội Ta.’ Bây giờ, Ta báo trước cho các con để khi sự việc xảy ra, các con sẽ tin chính Ta là Đấng Hằng Hữu. Thật vậy, Ta bảo các con: Ai tiếp người mà Ta sai đến là tiếp rước Ta, còn ai tiếp Ta là tiếp rước Đấng đã sai Ta. Sau khi Đức Giê-su dạy các điều đó xong, thì tâm thần Ngài bối rối. Ngài nói rõ: “Thật vậy, Ta bảo các con: Một người trong các con sẽ phản Ta.” Các môn đệ nhìn nhau hoang mang, không biết Ngài nói về ai. Một trong các môn đệ là người được Đức Giê-su yêu quý, lúc ấy đang ngồi sát bên cạnh Chúa. Si-môn Phê-rơ gật đầu ra dấu bảo ông ấy hỏi xem Thầy ám chỉ người nào vậy. Ông nghiêng người sát bên ngực Chúa, và hỏi: “Thưa Chúa, ai vậy?” Đức Giê-su trả lời: “Đó là người Ta sẽ trao miếng bánh mà Ta nhúng nước chấm này.” Rồi Ngài lấy một miếng bánh, nhúng vào nước chấm trao cho Giu-đa, con của Si-môn Ích-ca-ri-ốt. Ngay khi Giu-đa nhận miếng bánh, Sa-tan nhập vào hắn. Đức Giê-su bảo: “Việc anh sắp làm hãy làm nhanh lên!” Không một ai có mặt tại bàn ăn hiểu vì sao Ngài lại bảo hắn như thế. Vì Giu-đa đang phụ trách giữ tiền, nên một vài môn đệ tưởng Ngài bảo hắn đi mua sắm cho ngày lễ hay lấy tiền bố thí kẻ nghèo. Giu-đa nhận miếng bánh, liền ra đi. Trời sập tối. Khi Giu-đa bỏ đi, Đức Giê-su dạy tiếp: “Con Người giờ này được tôn vinh và Đức Chúa Trời cũng được tôn vinh trong Ngài. Nếu Đức Chúa Trời được tôn vinh trong Ngài, thì Đức Chúa Trời sẽ tôn vinh Con Người trong chính mình và Đức Chúa Trời sẽ thực hiện tức khắc. Hỡi các con bé thơ, Ta chỉ còn ở với các con được ít lâu nữa. Rồi các con sẽ tìm kiếm Ta, nhưng bây giờ Ta nhắc cho các con điều Ta đã bảo người Do Thái: ‘Nơi Ta đi các người sẽ không thể đến được.’ Bây giờ Ta truyền cho các con một điều răn mới: ‘Các con hãy yêu thương nhau. Ta đã yêu thương các con thể nào, các con cũng hãy yêu nhau thể ấy. Nếu các con yêu thương nhau, thì nhờ đó mọi người sẽ nhận biết các con là môn đệ Ta.’ Si-môn Phê-rơ hỏi Chúa: “Lạy Chúa, Chúa đi đâu vậy?” Đức Giê-su đáp: “Nơi Ta sắp đi con không thể theo được, nhưng về sau con sẽ theo Ta.” Phê-rơ lại hỏi: “Lạy Chúa, sao hiện giờ con không thể theo được? Con sẵn sàng chết vì Chúa.” Đức Giê-su đáp lại: “Con có thật sẵn sàng chết vì Ta không? Thật vậy, Ta bảo con: Trước khi gà gáy, con sẽ chối Ta ba lần.”
Jesus Parting Words to His Disciples
“Do not let your hearts be distressed. You believe in God; believe also in me. There are many dwelling places in my Father’s house. Otherwise, I would have told you, because I am going away to make ready a place for you. And if I go and make ready a place for you, I will come again and take you to be with me, so that where I am you may be too. And you know the way where I am going.” Thomas said, “Lord, we don’t know where you are going. How can we know the way?” Jesus replied, “I am the way, and the truth, and the life. No one comes to the Father except through me. If you have known me, you will know my Father too. And from now on you do know him and have seen him.” Philip said, “Lord, show us the Father, and we will be content.” Jesus replied, “Have I been with you for so long, and you have not known me, Philip? The person who has seen me has seen the Father! How can you say, ‘Show us the Father’? Do you not believe that I am in the Father, and the Father is in me? The words that I say to you, I do not speak on my own initiative, but the Father residing in me performs his miraculous deeds. Believe me that I am in the Father, and the Father is in me, but if you do not believe me, believe because of the miraculous deeds themselves. I tell you the solemn truth, the person who believes in me will perform the miraculous deeds that I am doing, and will perform greater deeds than these, because I am going to the Father. And I will do whatever you ask in my name, so that the Father may be glorified in the Son. If you ask me anything in my name, I will do it. “If you love me, you will obey my commandments. Then I will ask the Father, and he will give you another Advocate to be with you forever – the Spirit of truth, whom the world cannot accept, because it does not see him or know him. But you know him, because he resides with you and will be in you. “I will not abandon you as orphans, I will come to you. In a little while the world will not see me any longer, but you will see me; because I live, you will live too. You will know at that time that I am in my Father and you are in me and I am in you. The person who has my commandments and obeys them is the one who loves me. The one who loves me will be loved by my Father, and I will love him and will reveal myself to him.” “Lord,” Judas (not Judas Iscariot) said, “what has happened that you are going to reveal yourself to us and not to the world?” Jesus replied, “If anyone loves me, he will obey my word, and my Father will love him, and we will come to him and take up residence with him. The person who does not love me does not obey my words. And the word you hear is not mine, but the Father’s who sent me. “I have spoken these things while staying with you. But the Advocate, the Holy Spirit, whom the Father will send in my name, will teach you everything, and will cause you to remember everything I said to you. “Peace I leave with you; my peace I give to you; I do not give it to you as the world does. Do not let your hearts be distressed or lacking in courage. You heard me say to you, ‘I am going away and I am coming back to you.’ If you loved me, you would be glad that I am going to the Father, because the Father is greater than I am. I have told you now before it happens, so that when it happens you may believe. I will not speak with you much longer, for the ruler of this world is coming. He has no power over me, but I am doing just what the Father commanded me, so that the world may know that I love the Father. Get up, let us go from here.”
Chúa Là Chính Đạo
“Đừng để tâm trí các con bị bối rối. Đã tin Đức Chúa Trời, các con cũng hãy tin Ta nữa. Trong nhà Cha Ta có nhiều chỗ ở. Nếu không, Ta đã nói cho các con rồi. Ta ra đi để sửa soạn chỗ ở cho các con; nếu Ta đi và sửa soạn một chỗ cho các con, Ta cũng sẽ trở lại đón các con về với Ta, để Ta ở đâu các con cũng ở đó. Các con biết đường đến nơi Ta đi.” Thô-ma lên tiếng: “Thưa Chúa, chúng con không rõ Chúa đi đâu, làm sao biết đường?” Đức Giê-su đáp: “Ta chính là Con Đường, Chân Lý và Nguồn Sống, chẳng bởi Ta thì không ai đến cùng Cha được. Nếu các con đã biết rõ Ta, các con cũng sẽ biết rõ Cha Ta. Từ nay, các con biết được Ngài và thấy rõ Ngài.” Phi-líp thưa: “Lạy Chúa, xin chỉ Cha cho chúng con thì cũng đủ rồi.” Đức Giê-su đáp: “Phi-líp, Ta từng ở với các con bấy lâu mà con chưa biết Ta sao? Người nào thấy Ta là đã thấy Cha. Vậy sao con còn nói: Xin chỉ Cha cho chúng con. Con không tin rằng Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta sao? Những lời Ta truyền dạy các con chẳng phải Ta tự nói ra, nhưng chính Cha là Đấng đang ngự trong Ta thực hiện công việc của Ngài. Khi Ta bảo Ta ở trong Cha và Cha ở trong Ta, các con hãy tin lời Ta; bằng không, hãy căn cứ vào những việc Ta làm mà tin vậy. Thật vậy, Ta bảo các con: Người nào tin Ta, thì cũng sẽ làm những việc Ta làm, và còn làm những việc vĩ đại hơn nữa, vì Ta trở về cùng Cha. Bất cứ điều gì các con nhân danh Ta cầu xin, Ta sẽ làm cho, để Cha được tôn vinh trong Con. Bất cứ điều gì các con nhân danh Ta cầu xin, thì chính Ta sẽ làm cho nếu các con yêu kính Ta, các con sẽ giữ các điều răn Ta. Ta sẽ xin Cha và Ngài sẽ ban cho các con một Đấng Phù Hộ ở cùng các con đời đời. Ngài là Thần Chân Lý mà thế gian không thể tiếp nhận được, vì không thấy Ngài và cũng chẳng biết Ngài. Nhưng chính các con biết Ngài, vì Ngài đang ở với các con và sẽ ở trong các con. Ta không để cho các con mồ côi đâu. Ta sẽ trở lại cùng các con. Chẳng bao lâu, thế gian sẽ không còn thấy Ta nữa nhưng các con sẽ thấy Ta; vì Ta sống thì các con cũng sẽ sống. Trong ngày ấy, các con sẽ biết rằng Ta ở trong Cha Ta và các con ở trong Ta cũng như Ta ở trong các con. Người nào yêu kính Ta thì tiếp nhận và tuân giữ các điều răn Ta. Cha Ta sẽ yêu quý người nào yêu kính Ta. Ta cũng yêu quý người và sẽ tỏ bày chính Ta cho người.” Giu-đa (không phải là Giu-đa Ích-ca-ri-ốt) hỏi: “Thưa Chúa, sao Chúa lại tỏ mình cho chúng con mà không tỏ cho thế gian?” Đức Giê-su đáp: “Ai yêu kính Ta sẽ vâng giữ lời Ta. Cha Ta sẽ yêu quý người, chúng ta sẽ đến ở với người đó. Ai không yêu kính Ta thì không giữ lời Ta. Lời mà các con nghe đó chẳng phải của Ta nhưng của Cha là Đấng đã sai Ta. Ta tỏ cho các con những điều này đang khi Ta còn có mặt với các con. Nhưng khi Đấng Phù Hộ đến, tức là Thánh Linh mà Cha nhân danh Ta phái đến, Ngài sẽ dạy dỗ mọi điều và nhắc lại cho các con nhớ tất cả những gì Ta đã truyền dạy các con. Ta để lại sự bình an cho các con. Sự bình an Ta ban cho các con không phải như của thế gian cho. Đừng sờn lòng nản chí và sợ hãi. Các con đã nghe Ta bảo: Ta sắp ra đi, nhưng Ta sẽ trở lại cùng các con; nếu các con yêu kính Ta, các con hẳn mừng rỡ vì Ta sắp về cùng Cha; Ngài cao trọng hơn Ta. Giờ đây, Ta bảo trước cho các con, để khi những sự việc ấy xảy đến thì các con tin. Ta sẽ không còn nói nhiều với các con nữa vì lãnh tụ của thế gian sắp đến. Nó chẳng có quyền hành gì trên Ta cả. Nhưng để thế gian biết rằng Ta yêu kính Cha, Ta làm theo tất cả những gì Cha truyền bảo. Đứng dậy, chúng ta hãy ra khỏi nơi này.” 14
The Vine and the Branches
“I am the true vine and my Father is the gardener. He takes away every branch that does not bear fruit in me. He prunes every branch that bears fruit so that it will bear more fruit. You are clean already because of the word that I have spoken to you. Remain in me, and I will remain in you. Just as the branch cannot bear fruit by itself, unless it remains in the vine, so neither can you unless you remain in me. “I am the vine; you are the branches. The one who remains in me – and I in him – bears much fruit, because apart from me you can accomplish nothing. If anyone does not remain in me, he is thrown out like a branch, and dries up; and such branches are gathered up and thrown into the fire, and are burned up. If you remain in me and my words remain in you, ask whatever you want, and it will be done for you. My Father is honored by this, that you bear much fruit and show that you are my disciples.
Ví Dụ Về Cây Nho Và Cành Nho
“Chính Ta là cây nho thật, còn Cha Ta là người trồng nho. Nhánh nào trong Ta mà không ra quả thì Ngài nhấc lên, và Ngài tỉa sửa những nhánh nào ra quả để càng nhiều quả hơn. Các con được trong sạch rồi, nhờ lời Ta truyền dạy. Hãy cứ ở trong Ta như chính Ta ở trong các con. Như nhánh nho, nếu không liền với cây nho, thì tự nó không ra quả được; khi các con không ở trong Ta thì cũng chẳng kết quả gì. Chính Ta là cây nho, còn các con là nhánh; người nào cứ ở trong Ta và Ta trong người ấy thì chắc sẽ sinh nhiều quả, vì ngoài Ta các con không làm gì được. Nếu ai không ở trong Ta thì bị ném ra ngoài, như nhánh nho lìa khỏi cây nho sẽ khô héo. Người ta sẽ gom lại ném vào lửa thì nó cháy rụi. Nếu các con cứ ở trong Ta và các lời của Ta vẫn ở trong các con, hãy cầu xin điều gì mình ước muốn thì sẽ được. Điều làm Cha Ta được tôn vinh là các con kết được nhiều quả và như thế chứng tỏ là môn đệ Ta
The Commandment of Love
“Just as the Father has loved me, I have also loved you; remain in my love. If you obey my commandments, you will remain in my love, just as I have obeyed my Father’s commandments and remain in his love. I have told you these things so that my joy may be in you, and your joy may be complete. My commandment is this – to love one another just as I have loved you. No one has greater love than this – that one lays down his life for his friends. You are my friends if you do what I command you. I no longer call you slaves, because the slave does not understand what his master is doing. But I have called you friends, because I have revealed to you everything I heard from my Father. You did not choose me, but I chose you and appointed you to go and bear fruit, fruit that remains, so that whatever you ask the Father in my name he will give you. This I command you – to love one another. “If the world hates you, be aware that it hated me first. If you belonged to the world, the world would love you as its own. However, because you do not belong to the world, but I chose you out of the world, for this reason the world hates you. Remember what I told you, ‘A slave is not greater than his master.’ If they persecuted me, they will also persecute you. If they obeyed my word, they will obey yours too. But they will do all these things to you on account of my name, because they do not know the one who sent me. If I had not come and spoken to them, they would not be guilty of sin. But they no longer have any excuse for their sin. The one who hates me hates my Father too. If I had not performed among them the miraculous deeds that no one else did, they would not be guilty of sin. But now they have seen the deeds and have hated both me and my Father. Now thishappened to fulfill the word that is written in their law, ‘They hated me without reason.’ When the Advocate comes, whom I will send you from the Father – the Spirit of truth who goes out from the Father – he will testify about me, and you also will testify, because you have been with me from the beginning.
Luật Yêu Thương
Như Cha đã yêu Ta thể nào thì chính Ta cũng yêu các con thể ấy. Hãy cứ ở trong tình yêu của Ta. Nếu các con vâng giữ điều răn của Ta thì các con sẽ còn ở trong tình yêu của Ta cũng như Ta đã giữ các điều răn của Cha Ta và còn ở mãi trong tình yêu Ngài. Ta bảo cho các con những điều này để niềm vui của Ta ở cùng các con và niềm vui của các con được đầy trọn.” “Đây là điều răn Ta truyền: Các con hãy yêu thương nhau như Ta đã yêu các con. Chẳng có tình yêu nào vĩ đại hơn là tình yêu của người chịu hy sinh tính mạng cho bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Ta nếu các con thi hành điều Ta truyền. Ta không còn gọi các con là đầy tớ nữa, vì đầy tớ không biết điều chủ mình làm; nhưng Ta đã gọi các con là bạn hữu, vì mọi điều nghe được nơi Cha, Ta đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Ta, nhưng chính Ta đã chọn các con và sai phái các con, để các con ra đi đạt nhiều thành quả và bông trái của các con tồn tại mãi. Như vậy, bất kỳ điều gì các con nhân danh Ta mà cầu xin Cha, Ngài sẽ ban cho các con. Ta truyền dạy các con những điều này để các con yêu thương nhau nếu thế gian ghét các con, thì hãy biết là họ đã từng ghét Ta trước rồi. Nếu các con ra từ thế gian nầy thì thế gian sẽ yêu chuộng người của họ. Nhưng vì các con không thuộc thế gian và Ta đã tuyển chọn các con từ trong thế gian, nên thế gian hẳn sẽ ghét các con. Hãy ghi nhớ lời Ta dạy bảo các con: Không đầy tớ nào hơn chủ mình được. Nếu họ đã bắt bớ Ta thì cũng sẽ bắt bớ các con. Nếu họ đã vâng giữ lời Ta dạy thì cũng sẽ vâng giữ lời các con. Nhưng họ sẽ đối xử với các con như vậy vì danh Ta và cũng vì họ không biết Đấng đã sai phái Ta. Nếu Ta không đến bảo cho họ hay thì họ đã khỏi mắc tội, nhưng bây giờ họ không thể viện cớ gì để bào chữa tội lỗi mình được. Người nào ghét Ta là ghét cả Cha Ta. Nếu Ta không làm giữa họ những việc chưa ai từng làm nổi, thì họ khỏi mắc tội, nhưng bây giờ họ đã thấy rõ mà lại còn ghét Ta cùng Cha Ta. Nhưng việc phải xảy đến như vậy để lời trong Kinh Luật được ứng nghiệm: ‘Họ đã ghét Ta vô cớ.’ Khi Đấng Phù Hộ đến, Đấng mà Ta bởi Cha sẽ sai đến với các con, Ngài là Thần Chân Lý xuất phát từ Cha; chính Ngài sẽ làm chứng về Ta. Và chính các con cũng sẽ làm nhân,chứng, vì các con đã ở cùng Ta từ lúc ban đầu.”
“I have told you all these things so that you will not fall away. They will put you out of the synagogue, yet a time is coming when the one who kills you will think he is offering service to God. They will do these things because they have not known the Father or me. But I have told you these things so that when their time comes, you will remember that I told you about them.
“Ta đã bảo các con những điều này để các con khỏi vấp ngã. Các con sẽ bị trục xuất khỏi hội đường, nhưng sẽ có lúc người ta tưởng rằng giết các con là phục vụ Đức Chúa Trời. Họ làm những việc này vì không biết Chúa Cha và Ta. Nhưng Ta đã nói cho các con những điều này để đến lúc ấy, các con sẽ nhớ lại là chính Ta đã báo trước rồi. Sở dĩ Ta chẳng nói ra từ ban đầu vì Ta còn ở với các con.
Works of the Holy Spirit
“I did not tell you these things from the beginning because I was with you. But now I am going to the one who sent me, and not one of you is asking me, ‘Where are you going?’ Instead your hearts are filled with sadness because I have said these things to you. But I tell you the truth, it is to your advantage that I am going away. For if I do not go away, the Advocate will not come to you, but if I go, I will send him to you. And when he comes, he will prove the world wrong concerning sin and righteousness and judgment – concerning sin, because they do not believe in me; concerning righteousness, because I am going to the Father and you will see me no longer; and concerning judgment, because the ruler of this world has been condemned. “I have many more things to say to you, but you cannot bear them now. But when he, the Spirit of truth, comes, he will guide you into all truth. For he will not speak on his own authority, but will speak whatever he hears, and will tell you what is to come. He will glorify me, because he will receive from me what is mine and will tell it to you. Everything that the Father has is mine; that is why I said the Spirit will receive from me what is mine and will tell it to you. In a little while you will see me no longer; again after a little while, you will see me.”
Công Việc Của Đức Thánh Linh
Nhưng bây giờ, Ta sắp trở về cùng Đấng đã sai Ta đến, mà không ai trong các con hỏi Thầy đi đâu? Vì Ta nói cho các con những điều này nên lòng các con đầy buồn lo. Nhưng Ta bảo các con sự thật này: Ta ra đi là ích lợi cho các con, vì nếu Ta không đi thì Đấng Phù Hộ sẽ không đến cùng các con. Nhưng nếu Ta đi, Ta sẽ phái Ngài đến cùng các con. Khi đến, Ngài sẽ làm thế gian nhận thức về tội lỗi, về lẽ công chính và về sự định tội: Về tội lỗi, vì họ không tin Ta; về lẽ công chính vì Ta sắp đi về cùng Cha và các con không còn thấy Ta nữa; và về sự định tội vì lãnh tụ trần gian này đã bị kết án rồi. Ta còn nhiều điều muốn bày tỏ cho các con nhưng bây giờ các con chưa đủ sức nhận. Nhưng khi Thánh Linh là Thần Chân Lý đến, Ngài sẽ hướng dẫn các con vào chân lý toàn vẹn, vì Ngài không tự mình nói ra nhưng chỉ nói những gì Ngài nghe và loan báo cho các con những việc đang xảy đến. Ngài sẽ tôn vinh Ta vì Ngài nhận từ Ta và truyền lại cho các con. Tất cả những gì của Cha đều thuộc về Ta, nên Ta mới nói Thánh Linh nhận từ Ta và truyền lại cho các con.” “Chẳng bao lâu nữa các con sẽ không thấy Ta, nhưng rồi ít lâu sau các con lại sẽ thấy Ta.
Sorrow and Joy
Then some of his disciples said to one another, “What is the meaning of what he is saying, ‘In a little while you will not see me; again after a little while, you will see me,’ and, ‘because I am going to the Father’?” So they kept on repeating, “What is the meaning of what he says, ‘In a little while’? We do not understand what he is talking about.” Jesus could see that they wanted to ask him about these things, so he said to them, “Are you asking each other about this – that I said, ‘In a little while you will not see me; again after a little while, you will see me’? I tell you the solemn truth, you will weep and wail, but the world will rejoice; you will be sad, but your sadness will turn into joy. When a woman gives birth, she has distress because her time has come, but when her child is born, she no longer remembers the suffering because of her joy that a human being has been born into the world. So also you have sorrow now, but I will see you again, and your hearts will rejoice, and no one will take your joy away from you. At that time you will ask me nothing. I tell you the solemn truth, whatever you ask the Father in my name he will give you. Until now you have not asked for anything in my name. Ask and you will receive it, so that your joy may be complete. “I have told you these things in obscure figures of speech; a time is coming when I will no longer speak to you in obscure figures, but will tell you plainly about the Father. At that time you will ask in my name, and I do not say that I will ask the Father on your behalf. For the Father himself loves you, because you have loved me and have believed that I came from God. I came from the Father and entered into the world, but in turn, I am leaving the world and going back to the Father.” His disciples said, “Look, now you are speaking plainly and not in obscure figures of speech! Now we know that you know everything and do not need anyone to ask you anything. Because of this we believe that you have come from God.” Jesus replied, “Do you now believe? Look, a time is coming – and has come – when you will be scattered, each one to his own home, and I will be left alone. Yet I am not alone, because my Father is with me. I have told you these things so that in me you may have peace. In the world you have trouble and suffering, but take courage – I have conquered the world.”
Buồn Bã Và Vui Mừng
Vì thế, một số môn đệ của Ngài hỏi nhau: “Ngài bảo chúng ta ‘chẳng bao lâu các con sẽ không thấy Ta’ rồi ‘ít lâu sau các con lại sẽ thấy Ta’, và lại ‘vì Ta sắp về cùng Cha’, là nghĩa gì?” Họ lại tiếp: “Ngài nói ‘chẳng bao lâu’ là thế nào? Chúng ta không hiểu Ngài nói gì đây?” Đức Giê-su biết ý họ muốn hỏi nên Ngài nói: “Các con thảo luận với nhau để tìm hiểu lời Ta dạy ‘chẳng bao lâu các con sẽ không còn thấy Ta rồi lại ít lâu sau sẽ thấy Ta’ là nghĩa gì phải không? Thật vậy, Ta bảo các con: Các con sẽ khóc lóc, than vãn, nhưng thế gian lại vui cười; các con sẽ ưu sầu, nhưng nỗi buồn của các con sẽ biến thành niềm vui. Người đàn bà đau đớn khi sinh nở vì giờ mình sắp đến, nhưng khi con đã lọt lòng, người mẹ không còn nhớ đến nỗi đau đớn nữa, vì vui mừng thấy con mình đã ra đời. Chính các con giờ này cũng ưu sầu, nhưng rồi sẽ gặp lại Ta, thì lòng các con sẽ vui mừng và không ai đoạt mất niềm vui của các con được. Ngày ấy, các con không còn phải hỏi Ta điều gì. Thật vậy, Ta bảo các con: Điều gì các con nhân danh Ta cầu xin Cha, Ngài sẽ ban cho. Cho đến bây giờ, các con chưa hề nhân danh Ta cầu xin điều gì cả. Hãy cầu xin đi, các con sẽ nhận được để các con hưởng trọn niềm vui. Lâu nay Ta dùng ẩn dụ dạy bảo những điều nầy, giờ này Ta không còn dùng ẩn dụ nữa, nhưng công bố rõ rệt về Cha cho các con. Ngày ấy, các con sẽ nhân danh Ta mà cầu xin, và Ta không còn nói là Ta sẽ cầu thay với Cha cho các con. Bởi Cha yêu mến các con vì các con yêu kính Ta và tin rằng Ta đến từ Đức Chúa Trời. Ta từ Cha xuống trần gian, rồi sẽ rời trần gian về với Cha.” Các môn đệ thưa: “Bây giờ Thầy nói rõ ra, không dùng ẩn dụ nữa. Giờ đây, chúng con biết Thầy am tường mọi điều, không cần có ai phải hỏi thầy, nên chúng con tin Thầy đến từ Đức Chúa Trời.” Đức Giê-su tiếp: “Bây giờ các con tin chưa? Nầy, thì giờ sắp điểm, thật ra đã điểm rồi, các con sẽ bị tan lạc mỗi người một ngả và bỏ Ta lại một mình; nhưng Ta không đơn độc đâu vì Cha đang ở cùng Ta. Ta bảo cho các con những điều này để các con được bình an trong Ta. Trong thế gian, các con sẽ gặp hoạn nạn; nhưng hãy an tâm! Ta đã thắng thế gian rồi.” 16
Jesus Prays for the Father to Glorify Him
When Jesus had finished saying these things, he looked upward to heaven and said, “Father, the time has come. Glorify your Son, so that your Son may glorify you – just as you have given him authority over all humanity, so that he may give eternal life to everyone you have given him. Now this is eternal life – that they know you, the only true God, and Jesus Christ, whom you sent. I glorified you on earth by completing the work you gave me to do. And now, Father, glorify me at your side with the glory I had with you before the world was created. “I have revealed your name to the men you gave me out of the world. They belonged to you, and you gave them to me, and they have obeyed your word. Now they understand that everything you have given me comes from you, because I have given them the words you have given me. They accepted them and really understand that I came from you, and they believed that you sent me. I am praying on behalf of them. I am not praying on behalf of the world, but on behalf of those you have given me, because they belong to you. Everything I have belongs to you, and everything you have belongs to me, and I have been glorified by them. I am no longer in the world, but they are in the world, and I am coming to you. Holy Father, keep them safe in your name that you have given me, so that they may be one just as we are one. When I was with them I kept them safe and watched over them in your name that you have given me. Not one of them was lost except the one destined for destruction, so that the scripture could be fulfilled. But now I am coming to you, and I am saying these things in the world, so they may experience my joy completed in themselves. I have given them your word, and the world has hated them, because they do not belong to the world, just as I do not belong to the world. I am not asking you to take them out of the world, but that you keep them safe from the evil one. They do not belong to the world just as I do not belong to the world. Set them apart in the truth; your word is truth. Just as you sent me into the world, so I sent them into the world. And I set myself apart on their behalf, so that they too may be truly set apart. “I am not praying only on their behalf, but also on behalf of those who believe in me through their testimony, that they will all be one, just as you, Father, are in me and I am in you. I pray that they will be in us, so that the world will believe that you sent me. The glory you gave to me I have given to them, that they may be one just as we are one – I in them and you in me – that they may be completely one, so that the world will know that you sent me, and you have loved them just as you have loved me. “Father, I want those you have given me to be with me where I am, so that they can see my glory that you gave me because you loved me before the creation of the world. Righteous Father, even if the world does not know you, I know you, and these men know that you sent me. I made known your name to them, and I will continue to make it known, so that the love you have loved me with may be in them, and I may be in them.”
Lời Cầu Nguyện Của Chúa Cứu Thế
Đức Giê-su truyền dạy những điều đó xong, thì ngước mắt lên trời cầu nguyện: “Thưa Cha, giờ đã điểm, xin tôn vinh Con của Cha để Con cũng tôn vinh Cha, vì Cha đã ban cho Con thẩm quyền trên tất cả chúng sinh, cốt để Con cũng ban sự sống vĩnh phúc cho mọi người Cha đã giao cho Con. Sự sống vĩnh phúc chính là nhận biết Cha là Đức Chúa Trời chân thật duy nhất và Chúa Cứu Thế Giê-su mà Cha sai đến. Con đã tôn vinh Cha trên đất, đã hoàn tất công việc Cha giao cho Con làm, nên bây giờ thưa Cha, xin chính Cha tôn vinh Con trước mặt Cha bằng vinh quang mà Con vốn có lúc ở cùng Cha, trước khi vũ trụ hiện hữu. Con đã làm sáng tỏ danh Cha giữa những người Cha ban cho Con từ thế gian này. Họ đã thuộc về Cha và Cha ban họ cho Con. Họ đã vâng giữ lời Cha. Giờ đây họ đã biết rõ mọi điều Cha ban cho Con đều do Cha mà đến. Vì nhờ Con đã truyền cho họ mọi lời Cha dạy Con, nên họ tiếp nhận và biết Con thực sự đến từ Cha cùng tin rằng chính Cha đã sai Con đến. Con cầu thay cho họ, không phải cho thế gian, nhưng cho những người Cha đã ban cho Con, vì họ thuộc về Cha. Mọi điều Con có đều là của Cha, và tất cả những gì của Cha cũng là của Con, và Con được tôn vinh nơi họ. Con không ở trong thế gian nữa, nhưng họ vẫn ở lại trong trần gian, còn Con đi về cùng Cha. Thưa Cha Thánh, xin bảo toàn họ trong uy danh Cha mà Cha đã ban cho Con để họ hiệp nhất cũng như Cha và Con. Khi còn ở với họ, Con đã giữ gìn họ an toàn trong uy danh của Cha mà Cha đã ban cho Con. Con đã bảo vệ họ, trừ đứa con của sự hủy diệt ra, không một người nào bị hư mất, để cho lời Kinh Thánh được ứng nghiệm. Bây giờ, Con đi về cùng Cha, Con nói những điều này ra trong thế gian để họ hưởng trọn niềm vui mừng của Con; Con truyền lời Cha cho họ. Người đời ghét họ, vì họ không thuộc về thế gian, cũng như Con không thuộc về thế gian. Con không cầu xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ an toàn khỏi kẻ ác. Họ không thuộc về trần gian, cũng như Con không thuộc về trần gian. Xin Cha dùng chân lý thánh hóa họ. Lời Cha chính là chân lý. Như Cha đã sai Con đến trần gian, thì Con cũng phái họ vào trần gian.Vì họ mà Con thánh hiến chính mình, để họ cũng được thánh hóa trong chân lý. Không những Con cầu thay cho họ thôi đâu, mà còn cho những người nào tiếp nhận lời họ và tin theo Con nữa. Thưa Cha, Con cầu xin cho họ tất cả đều hiệp nhất cũng như Cha trong Con và Con trong Cha, để họ cũng ở trong Cha và Con. Do đó, thế gian sẽ tin rằng chính Cha đã sai Con đến. Con đã ban cho họ vinh quang mà Cha đã ban cho Con, để họ được hiệp nhất cũng như Cha với Con là một. Con ở trong họ và Cha ở trong Con, để họ được hoàn toàn hiệp nhất và nhờ đó, thế gian biết rõ là Cha đã sai Con và Cha yêu quý họ như Cha đã yêu Con. Thưa Cha, Cha đã ban họ cho Con và Con muốn Con ở đâu, thì họ cũng ở đó với Con, để họ được chiêm ngưỡng vinh quang của Con mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu Con trước khi sáng tạo vũ trụ. Thưa Cha công chính, thế gian không biết Cha, nhưng Con biết Cha và những người này cũng biết chính Cha đã sai Con đến. Con đã tiết lộ danh Cha cho họ và sẽ còn bày tỏ thêm, để tình Cha thương Con ở trong họ và để Con còn ở trong họ mãi.”
Jesus’ Betrayal and Arrest
When he had said these things, Jesus went out with his disciples across the KidronValley. There was an orchard there, and he and his disciples went into it.(Now Judas, the one who betrayed him, knew the place too, because Jesus had met there many times with his disciples.) So Judas obtained a squad of soldiers and some officers of the chief priests and Pharisees. They came to the orchard with lanterns and torches and weapons. Then Jesus, because he knew everything that was going to happen to him, came and asked them, “Who are you looking for?” They replied, “Jesus the Nazarene.” He told them, “I am he.” (Now Judas, the one who betrayed him, was standing there with them.)So when Jesus said to them, “I am he,” they retreated and fell to the ground. Then Jesus asked them again, “Who are you looking for?” And they said, “Jesus the Nazarene.” Jesus replied, “I told you that I am he. If you are looking for me, let these men go.” He said this to fulfill the word he had spoken, “I have not lost a single one of those whom you gave me.” Then Simon Peter, who had a sword, pulled it out and struck the high priest’s slave, cutting off his right ear. (Now the slave’s name was Malchus.) But Jesus said to Peter, “Put your sword back into its sheath! Am I not to drink the cup that the Father has given me?”
Chúa Bị Bắt
Sau khi cầu xin những điều này, Đức Giê-su cùng các môn đệ băng qua khe Kít-rôn, tại đó có một khu vườn, Ngài và các môn đệ vào khu vườn. Tên phản bội Giu-đa cũng biết chỗ này, vì Chúa thường họp với các môn đệ tại đó. Giu-đa dẫn một đội lính và một số thuộc hạ của các thượng tế và nhóm Pha-ri-si vào vườn, mang theo đèn đuốc và khí giới. Đức Giê-su đã biết mọi việc sắp xảy đến cho Ngài, nên bước ra hỏi họ: “Các người tìm ai?” Họ đáp: “Giê-su, người Na-xa-rét.” Ngài trả lời: “Chính Ta đây.” Giu-đa, tên phản bội, cũng đang đứng đó với họ. Nghe Ngài bảo: “Chính Ta đây,” họ giật lùi, ngã nhào xuống đất. Ngài lại hỏi họ một lần nữa: “Các người tìm ai?” Họ đáp: “Giê-su, người Na-xa-rét.” Đức Giê-su đáp: “Ta đã bảo các người, chính Ta đây. Nếu các người tìm bắt Ta hãy để những người nầy đi.” Việc này nhằm ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Những người Cha ban cho Con, Con không để mất một ai cả.” Si-môn Phê-rơ sẵn có thanh gươm, nên rút ra chém đứt vành tai bên mặt của Man-chu, đầy tớ của vị trưởng tế. Đức Giê xu bảo Phê-rơ: “Hãy nạp gươm vào vỏ; chén Cha đã ban cho Ta, Ta không uống sao?”
Jesus Before Annas
Then the squad of soldiers with their commanding officer and the officers of the Jewish leaders arrested Jesus and tied him up. They brought him first to Annas, for he was the father-in-law of Caiaphas, who was high priest that year. (Now it was Caiaphas who had advised the Jewish leaders that it was to their advantage that one man die for the people.)
Chúa Bị Giải Đến An-ne
Sau đó, đội lính dưới quyền viên chỉ huy cùng các thuộc hạ của giới thẩm quyền Do Thái bắt Đức Giê-su trói lại. Họ giải Ngài đến An-ne trước, vì ông là nhạc phụ của Cai-pha, vị trưởng tế đương niên. Chính Cai-pha trước đây đã bàn với giới thẩm quyền Do Thái: “Thà để một người chết thay cho toàn dân vẫn hơn.”
Peter’s First Denial of Jesus
Simon Peter and another disciple followed them as they brought Jesus to Annas. (Now the other disciple was acquainted with the high priest, and he went with Jesus into the high priest’s courtyard.) But Simon Peter was left standing outside by the door. So the other disciple who was acquainted with the high priest came out and spoke to the slave girl who watched the door, and brought Peter inside. The girl who was the doorkeeper said to Peter, “You’re not one of this man’s disciples too, are you?” He replied, “I am not.” (Now the slaves and the guards were standing around a charcoal fire they had made, warming themselves because it was cold. Peter also was standing with them, warming himself.)
Phê-rơ Chối Chúa
Si-môn Phê-rơ và một môn đệ nữa đi theo Ngài. Môn đệ kia nhờ quen biết vị trưởng tế nên vào được trong sân dinh với Đức Giê-su, còn Phê-rơ đứng ngoài cửa. Môn đệ quen biết vị trưởng tế ra nói với đứa tớ gái gác cổng, rồi đưa Phê-rơ vào trong. Đứa tớ gái gác cổng hỏi Phê-rơ: “Ông không thuộc nhóm môn đệ của người ấy sao?” Phê-rơ trả lời: “Không phải tôi!” Các gia nhân và đám thuộc hạ đốt một đống lửa rồi đứng sưởi vì trời giá lạnh; Phê-rơ cũng đứng sưởi với họ.
Jesus Questioned by Annas
While this was happening, the high priest questioned Jesus about his disciples and about his teaching. Jesus replied, “I have spoken publicly to the world. I always taught in the synagogues and in the temple courts, where all the Jewish people assemble together. I have said nothing in secret. Why do you ask me? Ask those who heard what I said. They know what I said.” When Jesus had said this, one of the high priest’s officers who stood nearby struck him on the face and said, “Is that the way you answer the high priest?” Jesus replied, “If I have said something wrong, confirm what is wrong. But if I spoke correctly, why strike me?” Then Annas sent him, still tied up, to Caiaphas the high priest.
Vị Trưởng Tế Tra Hỏi Chúa Giê-su
Vị trưởng tế tra hỏi Đức Giê-su về các môn đệ của Ngài và những giáo lý Ngài dạy dỗ. Đức Giê-su đáp: “Ta đã tuyên bố công khai cho cả thiên hạ. Ta thường dạy dỗ trong các hội đường hay trong đền thờ, nơi tập họp của người Do Thái. Ta chẳng nói điều gì lén lút cả. Sao ông lại hạch hỏi Ta? Hãy tra hỏi những người nghe Ta, xem Ta bảo họ những gì. Chính họ biết rõ những điều Ta dạy dỗ.” Nghe Đức Giê-su nói vậy, một tên thuộc hạ đang đứng bên cạnh vả mặt Ngài mà trách: “Sao anh dám trả lời vị trưởng tế như vậy?” Đức Giê-su đáp: “Nếu Ta sai, hãy chỉ ra Ta sai chỗ nào, còn nếu Ta nói phải, sao lại đánh Ta?” Rồi An-ne sai giải Đức Giê-su vẫn còn bị trói, sang trưởng tế Cai-pha.
Peter’s Second and Third Denials
Meanwhile Simon Peter was standing in the courtyard warming himself. They said to him, “You aren’t one of his disciples too, are you?” Peter denied it: “I am not!” One of the high priest’s slaves, a relative of the man whose ear Peter had cut off, said, “Did I not see you in the orchard with him?” Then Peter denied it again, and immediately a rooster crowed.
Phê-rơ Lại Chối Chúa
Đang khi Si-môn Phê-rơ đứng sưởi tại đó, mấy người kia hỏi: “Chắc anh cũng thuộc nhóm môn đệ của ông ta chứ gì?” Nhưng Phê-rơ chối: “Không phải tôi đâu!” Một gia nhân của vị trưởng tế, có họ hàng với người bị Phê-rơ chém đứt tai, nói: “Chính tôi đã chẳng thấy anh ở trong khu vườn với ông ta đó sao!” Phê-rơ lại chối một lần nữa; tức thì gà gáy.
Jesus Brought Before Pilate
Then they brought Jesus from Caiaphas to the Roman governor’s residence. (Now it was very early morning.) They did not go into the governor’s residence so they would not be ceremonially defiled, but could eat the Passover meal. So Pilate came outside to them and said, “What accusation do you bring against this man?” They replied, “If this man were not a criminal, we would not have handed him over to you.” Pilate told them, “Take him yourselves and pass judgment on him according to your own law!” The Jewish leaders replied, “We cannot legally put anyone to death.” (This happened to fulfill the word Jesus had spoken when he indicated what kind of death he was going to die.)So Pilate went back into the governor’s residence, summoned Jesus, and asked him, “Are you the king of the Jews?” Jesus replied, “Are you saying this on your own initiative, or have others told you about me?” Pilate answered, “I am not a Jew, am I? Your own people and your chief priests handed you over to me. What have you done?” Jesus replied, “My kingdom is not from this world. If my kingdom were from this world, my servants would be fighting to keep me from being handed over to the Jewish authorities. But as it is, my kingdom is not from here.” Then Pilate said, “So you are a king!” Jesus replied, “You say that I am a king. For this reason I was born, and for this reason I came into the world – to testify to the truth. Everyone who belongs to the truth listens to my voice.” Pilate asked, “What is truth?” When he had said this he went back outside to the Jewish leaders and announced, “I find no basis for an accusation against him. But it is your custom that I release one prisoner for you at the Passover. So do you want me to release for you the king of the Jews?” Then they shouted back, “Not this man, but Barabbas!” (Now Barabbas was a revolutionary.)
Chúa Gặp Phi-lát
Chúng giải Đức Giê-su từ nhà Cai-pha đến dinh thống đốc. Lúc ấy trời còn sớm. Họ không dám vào trong dinh vì sợ bị ô uế, không ăn lễ Vượt Qua được. Cho nên Phi-lát đi ra bên ngoài hỏi: “Các người tố cáo người này tội gì?” Họ trả lời: “Nếu hắn không làm ác, chúng tôi đã chẳng giải đến nộp quan.” Phi-lát bảo họ: “Thế thì hãy chiếu luật của các người mà xử tội hắn đi!” Những người Do Thái thưa lại: “Chúng tôi không có quyền xử tử ai hết.” Việc này xảy ra để ứng nghiệm điều Đức Giê-su đã bảo trước Ngài phải chết cách nào. Phi-lát trở vào trong dinh gọi Đức Giê-su hỏi: “Có phải anh là Vua dân Do Thái không?” Đức Giê-su trả lời: “Ông hỏi Ta như vậy hay có ai trình với ông về Ta?” Phi-lát nói: “Ta là người Do Thái sao? Dân tộc anh và các thượng tế đã nộp anh cho ta. Anh đã làm gì vậy?” Đức Giê-su đáp: “Vương quốc Ta không thuộc thế gian nầy. Nếu vương quốc Ta thuộc thế gian nầy, các môn đệ Ta đã chiến đấu để Ta khỏi bị nộp vào tay người Do Thái. Không, vương quốc Ta không thuộc thế gian nầy.” Phi-lát liền hỏi Ngài: “Vậy anh là vua sao?” Đức Giê-su đáp: “Chính quan vừa bảo Ta là vua. Ta sinh ra và đến thế gian này nhằm mục đích làm chứng cho chân lý. Ai thuộc về chân lý thì nghe theo tiếng Ta.” Phi-lát hỏi: “Chân lý là gì?” Nói xong, Phi-lát trở ra bên ngoài bảo các người Do Thái: “Ta không tìm được lý do nào để buộc tội người nầy cả. Nhưng theo tục lệ của các người, ta thường phóng thích cho các người một tù nhân trong dịp lễ Vượt Qua này. Các người muốn ta phóng thích vua dân Do Thái cho các người không?” Họ lại la lớn phản đối: “Không, đừng tha hắn. Xin tha cho Ba-ra-ba.” Ba-ra-ba là một tướng cướp. 18)))))
Pilate Tries to Release Jesus
Then Pilate took Jesus and had him flogged severely. The soldiers braided a crown of thorns and put it on his head, and they clothed him in a purple robe. They came up to him again and again and said, “Hail, king of the Jews!” And they struck him repeatedly in the face. Again Pilate went out and said to the Jewish leaders, “Look, I am bringing him out to you, so that you may know that I find no reason for an accusation against him.” So Jesus came outside, wearing the crown of thorns and the purple robe. Pilate said to them, “Look, here is the man!” When the chief priests and their officers saw him, they shouted out, “Crucify him! Crucify him!” Pilate said, “You take him and crucify him! Certainly I find no reason for an accusation against him!” The Jewish leaders replied, “We have a law, and according to our law he ought to die, because he claimed to be the Son of God!” When Pilate heard what they said, he was more afraid than ever, and he went back into the governor’s residence and said to Jesus, “Where do you come from?” But Jesus gave him no answer. So Pilate said, “Do you refuse to speak to me? Don’t you know I have the authority to release you, and to crucify you?” Jesus replied, “You would have no authority over me at all, unless it was given to you from above. Therefore the one who handed me over to you is guilty of greater sin.” From this point on, Pilate tried to release him. But the Jewish leaders shouted out, “If you release this man, you are no friend of Caesar! Everyone who claims to be a king opposes Caesar!” When Pilate heard these words he brought Jesus outside and sat down on the judgment seat in the place called “The Stone Pavement” (Gabbatha in Aramaic). (Now it was the day of preparation for the Passover, about noon.) Pilate said to the Jewish leaders, “Look, here is your king!” Then they shouted out, “Away with him! Away with him! Crucify him!” Pilate asked, “Shall I crucify your king?” The high priests replied, “We have no king except Caesar!” Then Pilate handed him over to them to be crucified.
Phi-lát Tra Vấn Chúa
Đoạn Phi-lát ra lệnh giải Đức Giê-su đi và sai đánh đòn Ngài. Quân lính bện một mão gai đội lên đầu Ngài, khoác áo choàng màu đỏ sẫm cho Ngài; rồi lần lượt tiến đến trước Ngài chế giễu: “Muôn tâu vua Do Thái.” Họ cũng vả vào mặt Ngài. Phi-lát bước ra ngoài một lần nữa, nói với đoàn dân: “Này ta sẽ đưa người ấy ra đây cho các người biết ta không tìm được lý do nào để tuyên án cả.” Thế là Đức Giê-su bị giải ra, đầu đội mão gai, mình khoác áo đỏ sẫm. Phi-lát bảo họ: “Kìa, người ấy đây.” Vừa khi các thượng tế và đám thuộc hạ thấy Ngài, họ la hét: “Đóng đinh hắn, đóng đinh hắn trên thập tự giá!” Phi-lát bảo: “Thế thì các người tự bắt người mà đóng đinh đi. Ta không thấy người nầy có tội gì cả.” Đám đông la ó: “Chúng tôi có luật, chiếu luật đó hắn phải chết, vì hắn tự cho mình là Con Đức Chúa Trời.” Phi-lát nghe như thế càng thêm sợ hãi. Ông ta trở vào nội điện, hỏi Đức Giê-su: “Anh từ đâu đến?” Nhưng Đức Giê-su không trả lời. Phi-lát nói với Ngài: “Anh không chịu nói với ta sao? Hãy nhớ là ta có quyền tha mạng hay đóng đinh anh.” Đức Giê-su trả lời: “Ông chỉ có quyền trên Ta khi Đức Chúa Trời ban cho ông quyền đó. Vì vậy người nộp Ta cho ông còn nặng tội hơn.”Từ đó, Phi-lát tìm cách tha Đức Giê-su, nhưng đám người Do Thái la hét: “Nếu thống đốc tha hắn thì thống đốc không phải là bạn của Sê-sa. Bất kỳ người nào xưng vương đều chống nghịch Sê-sa.”Khi Phi-lát nghe những lời nầy, ông đưa Đức Giê-su ra ngoài, và ngồi xử tại chỗ gọi là Nền Lát Đá (tiếng Do Thái là Ga-ba-tha). Hôm ấy là ngày Chuẩn Bị của Lễ Vượt Qua, khoảng giữa trưa. Phi-lát nói với dân chúng: “Đây là Vua của các người.” Họ gào thét: “Giết hắn đi! Giết hắn đi! Đóng đinh hắn trên thập tự giá!” Phi-lát hỏi họ: “Các người muốn ta đóng đinh Vua của các người sao?” Các thượng tế trả lời: “Vua duy nhất của chúng tôi là Sê-sa.” Sau đó, Phi-lát giao Đức Giê-su cho họ đóng đinh.
The Crucifixion
So they took Jesus, and carrying his own cross he went out to the place called “The Place of the Skull” (called in Aramaic Golgotha). There they crucified him along with two others, one on each side, with Jesus in the middle. Pilate also had a notice written and fastened to the cross, which read: “Jesus the Nazarene, the king of the Jews.” Thus many of the Jewish residents of Jerusalem read this notice, because the place where Jesus was crucified was near the city, and the notice was written in Aramaic, Latin, and Greek. Then the chief priests of the Jews said to Pilate, “Do not write, ‘The king of the Jews,’ but rather, ‘This man said, I am king of the Jews.’” Pilate answered, “What I have written, I have written.” Now when the soldiers crucified Jesus, they took his clothes and made four shares, one for each soldier, and the tunic remained. (Now the tunic was seamless, woven from top to bottom as a single piece.) So the soldiers said to one another, “Let’s not tear it, but throw dice to see who will get it.” This took place to fulfill the scripture that says, “They divided my garments among them, and for my clothing they threw dice.” So the soldiers did these things. Now standing beside Jesus’ cross were his mother, his mother’s sister, Mary the wife of Clopas, and Mary Magdalene. So when Jesus saw his mother and the disciple whom he loved standing there, he said to his mother, “Woman, look, here is your son!” He then said to his disciple, “Look, here is your mother!” From that very time the disciple took her into his own home.After this Jesus, realizing that by this time everything was completed, said (in order to fulfill the scripture), “I am thirsty!” A jar full of sour wine was there, so they put a sponge soaked in sour wine on a branch of hyssop and lifted it to his mouth. When he had received the sour wine, Jesus said, “It is completed!” Then he bowed his head and gave up his spirit.Then, because it was the day of preparation, so that the bodies should not stay on the crosses on the Sabbath (for that Sabbath was an especially important one), the Jewish leaders asked Pilate to have the victims’ legs broken and the bodies taken down.So the soldiers came and broke the legs of the two men who had been crucified with Jesus, first the one and then the other. But when they came to Jesus and saw that he was already dead, they did not break his legs. But one of the soldiers pierced his side with a spear, and blood and water flowed out immediately. And the person who saw it has testified (and his testimony is true, and he knows that he is telling the truth), so that you also may believe. For these things happened so that the scripture would be fulfilled, “Not a bone of his will be broken.” And again another scripture says, “They will look on the one whom they have pierced.”
ChúaGiê-su Bị Đóng Đinh
Họ liền giải Đức Giê-su đi. Ngài đi ra, vác thập tự giá đi đến chỗ tên là Cái Sọ, tiếng Do Thái gọi là Gô-gô-tha. Tại đó, họ đóng đinh Ngài. Họ cũng đóng đinh hai người khác hai bên, còn Đức Giê-su ở chính giữa. Phi-lát cho viết một tấm bảng treo lên cây thập tự, ghi rằng: “Giê-su, người Na-xa-rét, Vua dân Do Thái.” Nhiều người Do Thái đọc bảng nầy vì nơi Đức Giê-su bị đóng đinh gần thành phố. Bảng nầy được ghi bằng các thứ tiếng Do Thái, La Tinh và Hy Lạp. Các thượng tế thưa cùng Phi-lát: “Xin đừng ghi ‘Vua dân Do Thái’ nhưng đổi lại ‘Người nầy nói: Ta là Vua Do Thái.” Phi-lát trả lời: “Điều ta đã viết rồi, cứ để vậy.” Toán lính đóng đinh Đức Giê-su xong, lấy áo xống Ngài chia làm bốn phần, mỗi người một phần. Còn áo trong của Ngài, vì dệt nguyên tấm, không có đường may, nên họ bảo nhau: “Đừng xé áo ra nhưng chúng ta hãy bắt thăm xem ai được.” Như vậy để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Chúng chia nhau áo xống tôi và bắt thăm lấy áo trong của tôi.” Bọn lính đã làm đúng những điều đó. Mẹ của Đức Giê-su, dì của Ngài, Ma-ri vợ của Cơ-lê-ô-ba, và Ma-ri Ma-đơ-len đứng gần thập tự giá của Chúa. Đức Giê-su thấy mẹ Ngài và môn đệ Ngài yêu quý đứng đó thì thưa với mẹ: “Xin mẹ nhận người này làm con!” Rồi Ngài bảo môn đệ ấy: “Đây là mẹ con!” Từ lúc ấy, môn đệ này rước bà về ở với mình. Đức Giê-su biết mọi việc đã hoàn tất để ứng nghiệm Kinh Thánh thì bảo: “Ta khát.” Tại đó có một bình đầy giấm, nên người ta lấy một miếng bọt biển nhúng giấm, gắn vào đầu một cành bài hương đưa lên tận miệng Ngài. Sau khi nếm giấm, Đức Giê-su thốt lên: “Xong rồi.” Đoạn, Ngài gục đầu xuống, trút linh hồn. Vì hôm đó nhằm ngày Chuẩn Bị của lễ Vượt Qua, các nhà lãnh đạo Do Thái không muốn xác chết còn trên thập tự giá trong ngày Sa-bát, và vì là ngày Sa-bát trọng đại, nên họ xin Phi-lát cho đánh giập ống chân những người bị đóng đinh để hạ xác xuống. Quân lính đến đánh gãy ống chân người thứ nhất, rồi đến người kế đang cùng bị đóng đinh với Ngài. Nhưng khi đến gần Đức Giê-su, thấy Ngài đã chết, nên họ không đánh gãy chân Ngài. Nhưng một tên lính lấy giáo đâm vào hông Ngài, tức thì máu và nước trào ra. Người chứng kiến việc này đã làm chứng. Lời chứng của người là đúng và người ấy biết mình nói sự thật để anh chị em cũng tin. Những điều này hoàn thành để ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Không một cái xương nào của Người bị gãy.” Và một câu Kinh Thánh khác cũng chép: “Người ta sẽ nhìn xem Người họ đã đâm.”
Jesus’ Burial
After this, Joseph of Arimathea, a disciple of Jesus (but secretly, because he feared the Jewish leaders), asked Pilate if he could remove the body of Jesus. Pilate gave him permission, so he went and took the body away. Nicodemus, the man who had previously come to Jesus at night, accompanied Joseph, carrying a mixture of myrrh and aloes weighing about seventy-five pounds. Then they took Jesus’ body and wrapped it, with the aromatic spices, in strips of linen cloth according to Jewish burial customs. Now at the place where Jesus was crucified there was a garden, and in the garden was a new tomb where no one had yet been buried. And so, because it was the Jewish day of preparation and the tomb was nearby, they placed Jesus’ body there.
Chúa Giê-su Được Chôn
Sau đó Giô-sép, người làng A-ri-ma-thê, đến xin Phi-lát cho đem thi thể Đức Giê-su về (Giô-sép là một môn đệ của Đức Giê-su, nhưng theo Ngài cách thầm lén vì sợ nhà cầm quyền Do Thái). Phi-lát cho phép nên ông đến lấy thi thể Ngài. Ni-cô-đem, người trước kia đã đến thăm Đức Giê-su ban đêm, cùng đi với Giô-sép, mang theo khoảng ba mươi bốn ký-lô nhựa thơm trộn với lô hội. Hai người đưa thi thể Đức Giê-su về liệm bằng vải gai tẩm hương liệu theo tục lệ ướp xác của người Do Thái. Tại khu vườn nơi Đức Giê-su bị đóng đinh, có một hang mộ mới chưa chôn cất ai. Vì hôm ấy là ngày Chuẩn Bị của người Do Thái và ngôi mộ lại ở gần, nên họ mai táng Ngài tại đó.19
Jesus’ Resurrection
Now very early on the first day of the week, while it was still dark, Mary Magdalene came to the tomb and saw that the stone had been moved away from the entrance. So she went running to Simon Peter and the other disciple whom Jesus loved and told them, “They have taken the Lord from the tomb, and we don’t know where they have put him!” Then Peter and the other disciple set out to go to the tomb. The two were running together, but the other disciple ran faster than Peter and reached the tomb first. He bent down and saw the strips of linen cloth lying there, but he did not go in. Then Simon Peter, who had been following him, arrived and went right into the tomb. He saw the strips of linen cloth lying there, and the face cloth, which had been around Jesus’ head, not lying with the strips of linen cloth but rolled up in a place by itself. Then the other disciple, who had reached the tomb first, came in, and he saw and believed. (For they did not yet understand the scripture that Jesus must rise from the dead.)So the disciples went back to their homes. But Mary stood outside the tomb weeping. As she wept, she bent down and looked into the tomb. And she saw two angels in white sitting where Jesus’ body had been lying, one at the head and one at the feet. They said to her, “Woman, why are you weeping?” Mary replied, “They have taken my Lord away, and I do not know where they have put him!” When she had said this, she turned around and saw Jesus standing there, but she did not know that it was Jesus. Jesus said to her, “Woman, why are you weeping? Who are you looking for?” Because she thought he was the gardener, she said to him, “Sir, if you have carried him away, tell me where you have put him, and I will take him.” Jesus said to her, “Mary.” She turned and said to him in Aramaic, “Rabboni” (which means Teacher). Jesus replied, “Do not touch me, for I have not yet ascended to my Father. Go to my brothers and tell them, ‘I am ascending to my Father and your Father, to my God and your God.’” Mary Magdalene came and informed the disciples, “I have seen the Lord!” And she told them what Jesus had said to her.On the evening of that day, the first day of the week, the disciples had gathered together and locked the doors of the place because they were afraid of the Jewish leaders. Jesus came and stood among them and said to them, “Peace be with you.” When he had said this, he showed them his hands and his side. Then the disciples rejoiced when they saw the Lord. So Jesus said to them again, “Peace be with you. Just as the Father has sent me, I also send you.” And after he said this, he breathed on them and said, “Receive the Holy Spirit. If you forgive anyone’s sins, they are forgiven; if you retain anyone’s sins, they are retained.” Now Thomas (called Didymus), one of the twelve, was not with them when Jesus came. The other disciples told him, “We have seen the Lord!” But he replied, “Unless I see the wounds from the nails in his hands, and put my finger into the wounds from the nails, and put my hand into his side, I will never believe it!” Eight days later the disciples were again together in the house, and Thomas was with them. Although the doors were locked, Jesus came and stood among them and said, “Peace be with you!” Then he said to Thomas, “Put your finger here, and examine my hands. Extend your hand and put it into my side. Do not continue in your unbelief, but believe.” Thomas replied to him, “My Lord and my God!”Jesus said to him, “Have you believed because you have seen me? Blessed are the people who have not seen and yet have believed.” Now Jesus performed many other miraculous signs in the presence of the disciples, which are not recorded in this book. But these are recorded so that you may believe that Jesus is the Christ, the Son of God, and that by believing you may have life in his name.
Chúa Cứu Thế Sống Lại
Ngày thứ nhất trong tuần lễ, lúc trời còn mờ mờ tối, Ma-ri Ma-đơ-len đến mộ, thấy tảng đá chận cửa đã dời đi. Nàng vội chạy đi gặp Si-môn Phê-rơ và môn đệ Chúa yêu quý mà báo: “Họ dời thi hài Chúa ra khỏi mộ rồi, không biết họ để Ngài ở đâu.” Vậy Phê-rơ và môn đệ kia liền ra xem mộ. Cả hai đều chạy, nhưng môn đệ kia nhanh hơn, đến mộ trước, cúi nhìn vào mộ, thấy mấy cuộn vải dưới đất, nhưng không bước vào. Si-môn Phê-rơ đến sau, bước vào mộ, thấy mấy cuộn vải nằm đó, còn khăn liệm quấn đầu Chúa không để cùng với mấy cuộn vải nhưng cuốn lại để riêng một chỗ. Lúc ấy, môn đệ kia đã đến mộ trước, cũng bước vào, thấy thì tin như thế. Họ vẫn chưa hiểu lời Kinh Thánh chép rằng Đức Giê-su phải từ kẻ chết sống lại. Hai môn đệ đi về. Nhưng Ma-ri đứng bên ngoài mộ mà khóc. Vừa khóc, vừa cúi nhìn vào mộ, nàng thấy hai thiên sứ mặc y phục trắng đang ngồi ngay chỗ đã đặt thi hài Đức Giêsu, một vị ngồi phía đầu, một vị phía chân. Hai thiên sứ hỏi: “Chị ơi, sao chị khóc?” Nàng đáp: “Họ đã đem Chúa tôi đi đâu mất, không biết để Ngài ở đâu?” Nói xong, nàng quay người lại, thấy Đức Giê-su đứng đó, nhưng không nhận ra Ngài. Chúa hỏi: “Con ơi, sao con khóc? Con tìm ai?” Tưởng đây là người làm vườn, nàng khẩn khoản: “Thưa ông, nếu ông dời Ngài đi, xin cho tôi biết ông đặt Ngài ở đâu để tôi đến đem về.” Đức Giê-su gọi: “Ma-ri!” Ma-ri quay lại, reo lên bằng tiếng Do Thái: “Ra-bu-ni!” (nghĩa là: Thưa Thầy) Đức Giê-su bảo: “Con đừng cầm giữ Ta, vì Ta chưa lên cùng Cha! Nhưng con hãy đi báo tin cho các anh em Ta rằng Ta lên cùng Cha Ta và Cha các con, cùng Đức Chúa Trời Ta và Đức Chúa Trời các con.” Ma-ri Ma-đơ-len đi loan báo cho các môn đệ Ngài: “Tôi đã thấy Chúa” và thuật cho họ nghe những điều Ngài đã bảo nàng. Buổi chiều ngày đầu tuần lễ đó, khi các môn đệ đang họp, các cửa ra vào đều đóng chặt vì sợ người Do Thái, Đức Giê-su đến đứng giữa họ, phán rằng: “Bình an cho các con!” Nói xong, Chúa đưa tay và hông cho họ xem. Các môn đệ quá vui mừng vì được thấy Chúa. Đức Giê-su lại bảo: “Bình an cho các con! Như Cha đã sai phái Ta, giờ đây Ta cũng sai phái các con!”Vừa nói Chúa vừa hà hơi trên các môn đệ, truyền bảo: “Hãy nhận lãnh Thánh Linh! Các con tha tội ai thì họ được tha. Các con buộc tội ai thì họ bị buộc tội. Lúc ấy, Thô-ma (còn có tên là Sinh Đôi), một trong mười hai sứ đồ, không có mặt với các môn đệ khi Đức Giê-su đến. Nghe các môn đệ kia bảo họ đã thấy Chúa, ông nhất quyết: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở bàn tay Ngài, không đặt ngón tay tôi vào dấu đinh đó và không đặt tay tôi vào hông Ngài, thì tôi không tin!” Tám ngày sau, các môn đệ Chúa lại họp nhau, Thô-ma cũng có mặt. Cửa ngõ đều đóng chặt, nhưng Đức Giê-su đến đứng giữa họ, phán rằng: “Bình an cho các con!” Rồi Ngài bảo Thô-ma: “Hãy đặt ngón tay con vào đây và xem hai bàn tay Ta. Hãy lấy tay đặt vào hông Ta! Đừng nghi ngờ, nhưng hãy tin!” Thô-ma thưa: “Lạy Chúa của con và Đức Chúa Trời của con.” Đức Giê-su bảo Thô-ma: “Có phải con tin vì thấy Ta không? Phước cho những người chưa được thấy mà đã tin Ta.” Vậy Đức Giê-su còn làm nhiều dấu lạ khác trước mặt các môn đệ mà không ghi lại trong sách nầy. Nhưng những điều nầy được ghi chép để anh chị em tin Đức Giê-su là Chúa Cứu Thế, Con của Đức Chúa Trời, và nhờ đức tin đó anh chị em được sống trong Danh Ngài.
Jesus’ Appearance to the Disciples in Galilee
After this Jesus revealed himself again to the disciples by the Sea of Tiberias. Now this is how he did so. Simon Peter, Thomas (called Didymus), Nathanael (who was from Cana in Galilee), the sons of Zebedee, and two other disciples of his were together. Simon Peter told them, “I am going fishing.” “We will go with you,” they replied. They went out and got into the boat, but that night they caught nothing. When it was already very early morning, Jesus stood on the beach, but the disciples did not know that it was Jesus.So Jesus said to them, “Children, you don’t have any fish, do you?” They replied, “No.” He told them, “Throw your net on the right side of the boat, and you will find some.” So they threw the net, and were not able to pull it in because of the large number of fish. Then the disciple whom Jesus loved said to Peter, “It is the Lord!” So Simon Peter, when he heard that it was the Lord, tucked in his outer garment (for he had nothing on underneath it), and plunged into the sea. Meanwhile the other disciples came with the boat, dragging the net full of fish, for they were not far from land, only about a hundred yards. When they got out on the beach, they saw a charcoal fire ready with a fish placed on it, and bread. Jesus said, “Bring some of the fish you have just now caught.” So Simon Peter went aboard and pulled the net to shore. It was full of large fish, one hundred fifty-three, but although there were so many, the net was not torn. “Come, have breakfast,” Jesus said. But none of the disciples dared to ask him, “Who are you?” because they knew it was the Lord. Jesus came and took the bread and gave it to them, and did the same with the fish. This was now the third time Jesus was revealed to the disciples after he was raised from the dead. Then when they had finished breakfast, Jesus said to Simon Peter, “Simon, son of John, do you love me more than these do?” He replied, “Yes, Lord, you know I love you.” Jesus told him, “Feed my lambs.” Jesus said a second time, “Simon, son of John, do you love me?” He replied, “Yes, Lord, you know I love you.” Jesus told him, “Shepherd my sheep.” Jesus said a third time, “Simon, son of John, do you love me?” Peter was distressed that Jesus asked him a third time, “Do you love me?” and said, “Lord, you know everything. You know that I love you.” Jesus replied, “Feed my sheep. I tell you the solemn truth, when you were young, you tied your clothes around you and went wherever you wanted, but when you are old, you will stretch out your hands, and others will tie you up and bring you where you do not want to go.” (Now Jesus said this to indicate clearly by what kind of death Peter was going to glorify God.) After he said this, Jesus told Peter, “Follow me.”
Chúa Hiện Ra Cho CácMôn Đệ Tại Ga‑li‑lê
Sau các việc nầy, Đức Giê-su lại hiện ra cho các môn đệ tại bờ biển Ti-bê-ri-át. Việc Ngài hiện ra diễn tiến như sau: Si-môn Phê-rơ, Thô-ma (còn có tên là Sinh Đôi), Na-tha-na-ên, quê ở Ca-na, miền Ga-li-lê, các con trai của Xê-bê-đê và hai môn đệ nữa đang họp nhau. Si-môn Phê-rơ nói: “Tôi đi đánh cá đây!” Mấy người kia đáp: “Chúng tôi cùng đi với anh!” Họ ra đi, xuống thuyền, nhưng suốt đêm ấy chẳng bắt được gì cả.Trời vừa rạng đông, Đức Giê-su đến đứng trên bờ, nhưng các môn đệ không nhận ra Ngài. Đức Giê-su hỏi họ: “Các con ơi, không được con cá nào sao?” Họ thưa: “Không được chi cả.” Ngài bảo: “Các con hãy thả lưới bên phải mạn thuyền thì sẽ được.” Họ thả lưới thì được quá nhiều cá, nên kéo lên không nổi. Lúc ấy, môn đệ Đức Giê-su yêu quý bảo Phê-rơ: “Chúa đấy!” Vừa nghe bạn nói: “Chúa đấy!” Si-môn Phê-rơ liền lấy áo ngoài khoác lên mình (vì ông đang ở trần) và nhảy xuống nước. Các môn đệ khác chèo thuyền vào, kéo theo mẻ lưới đầy cá. Họ không cách xa bờ bao nhiêu, chỉ độ một trăm thước mà thôi.Vừa lên bờ, họ thấy có cá đang nướng trên lửa than và có cả bánh nữa. Đức Giê-su bảo họ: “Giờ hãy đem vài con cá các con mới đánh được lại đây!” Si-môn Phê-rơ lên thuyền, kéo lưới đầy cá lớn vào bờ, đếm được một trăm năm mươi ba con. Dù cá nhiều đến thế, mà lưới vẫn không rách. Đức Giê-su bảo họ: “Các con hãy lại ăn điểm tâm!” Không một môn đệ nào dám hỏi Ngài: “Ông là ai?” vì họ biết rõ chính là Chúa. Đức Giê-su lại gần, lấy bánh đưa cho các môn đệ, rồi cũng đưa cá nữa. Đây là lần thứ ba Đức Giê-su hiện ra cho các môn đệ sau khi Ngài sống lại từ kẻ chết. Khi họ ăn điểm tâm xong, Đức Giê-su hỏi Si-môn Phê-rơ: “Si-môn, con của Giăng! Con yêu kính Ta hơn những người này không?” Ông thưa: “Vâng, thưa Chúa, Chúa biết con yêu mến Ngài.” Chúa bảo: “Hãy nuôi dưỡng đàn chiên con của Ta.” Ngài lại hỏi lần thứ nhì: “Si-môn, con của Giăng! Con yêu kính Ta không?” Ông thưa: “Vâng, lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Ngài.” Ngài bảo: “Hãy chăn đàn chiên của Ta.” Ngài lại hỏi lần thứ ba: “Si-môn, con của Giăng! Con yêu mến Ta chăng?” Phê-rơ buồn lòng vì Chúa hỏi mình đến lần thứ ba: “Con yêu mến Ta chăng?” Nên thưa lại: “Lạy Chúa, Ngài biết tất cả. Ngài hiểu rõ là con yêu mến Ngài.” Đức Giê-su bảo: “Hãy nuôi dưỡng đàn chiên Ta. Thật vậy, Ta bảo con: Khi còn trẻ, con tự mình nai nịt, đi đâu tùy ý; nhưng khi về già, con sẽ đưa tay lên, để người khác nai nịt cho và đưa đến nơi mình không muốn.” Chúa nói như vậy để ám chỉ Phê-rơ sẽ chết cách nào để vinh hiển Đức Chúa Trời. Rồi Ngài bảo: “Con hãy theo Ta!”
Peter and the Disciple Jesus Loved
Peter turned around and saw the disciple whom Jesus loved following them. (This was the disciple who had leaned back against Jesus’ chest at the meal and asked, “Lord, who is the one who is going to betray you?”) So when Peter saw him, he asked Jesus, “Lord, what about him?” Jesus replied, “If I want him to live until I come back, what concern is that of yours? You follow me!” So the saying circulated among the brothers and sisters that this disciple was not going to die. But Jesus did not say to him that he was not going to die, but rather, “If I want him to live until I come back, what concern is that of yours?”This is the disciple who testifies about these things and has written these things, and we know that his testimony is true. There are many other things that Jesus did. If every one of them were written down, I suppose the whole world would not have room for the books that would be written.
Môn Đệ Chúa Yêu Quý
Phê-rơ quay lại thấy môn đệ Chúa yêu quý đi theo, là người đã nghiêng sát ngực Đức Giê-su trong bữa ăn lễ Vượt Qua để hỏi: “Thưa Chúa, ai là người sẽ phản Ngài?” Thấy môn đệ này, Phê-rơ hỏi Đức Giê-su: “Lạy Chúa, còn anh này thì sao?” Đức Giê-su đáp: “Nếu Ta muốn anh ấy sống mãi cho tới khi Ta đến thì liên hệ gì đến con? Phần con, hãy theo Ta!” Vì thế, có tin đồn giữa các anh em là môn đệ này sẽ không chết. Nhưng Đức Giê-su không nói anh ta không chết, Ngài chỉ nói: “Nếu Ta muốn anh ấy sống mãi cho tới khi Ta đến, thì liên hệ gì đến con.” Đây chính là môn đệ đã chứng kiến những việc nầy và ghi chép lại; chúng ta biết lời chứng của người nầy là thật. Đức Giê-su còn làm nhiều điều khác nữa, nếu ghi chép lại từng điều một, thiết tưởng cả thế giới cũng không chứa nổi các sách phải viết ra.
The Way of Salvation
Con Đường Cứu Rỗi
Have you ever stopped while on a trip to ask for directions, and the person you talked to gave you more than one way on how to get to your destination? That is confusing. I prefer to know just one way. Actually, the very fact that I was given an option between two or more routes means I am supposed to choose the best one before I start back on my journey. If I had known enough about the area to make a decision, I would not have stopped in the first place to ask for directions.
Bạn có bao giờ ngừng lại một lát trên một hành trình để hỏi đường, và người mà bạn hỏi đường chỉ bạn nhiều hơn một con đường đến đích chưa? Điều này thật lẫn lộn. Tôi thà biết một đường còn hơn. Thật ra, sự thật là tôi đã được quyền chọn một con đường giữa hai hay nhiều con đường khác nhau, nghĩa là tôi phải chọn con đường tốt nhất trước khi tôi bắt đầu lại hành trình của mình. Nếu tôi đã biết về địa danh đó đủ để ra quyết định, thì tôi đã không dừng lại ở nơi ban đầu để hỏi đường.
You have just completed reading one of 27 books written about the life of Jesus after he lived on earth. The following verses, which all come from what you have previously read, are a summary of the key verses related to the claims of Jesus about the true life.
Bạn vừa mới đọc xong một trong 27 sách viết về cuộc đời Chúa Jesus sau khi Ngài đã sống trên đất. Những câu nói sau, trích ra từ những gì bạn đã đọc trước đây, là một sự tóm lược những câu nói chìa khoá liên quan đến những lời công bố của Chúa Jesus về đời sống thật.
Many people think it is not fair or it is not believable that there is only one way to the true life. Actually, it is a great comfort that there is only one way; the authors of the 27 books on the life of Jesus all agree on this one way to the true life which leads to eternal life. If I can accept the one way, once I find it, I can then live the rest of my life being grateful for this gift of the truth rather than living in doubt and fear. Actually, that is why the subtitle of this chapter is called “Good News from John”.
Nhiều người nghĩ thật không công bằng hoặc không đáng tin rằng chỉ có một con đường duy nhất đến sự sống thật. Thực ra, đó là một sự an ủi lớn khi chỉ có một con đường duy nhất; tác giả của 27 sách nói về đời sống của Chúa Jesus đều đồng ý về một con đường dẫn đến sự sống thật này, là con đường dẫn đến sự sống đời đời. Nếu tôi chấp nhận một con đường, một khi tôi tìm được nó, thì tôi có thể sống hết phần còn lại của đời sống tôi trong sự biết ơn món quà chân lý này hơn là sống trong nghi ngờ và sợ hãi. Thực ra, đây là lý do tại sao tựa đề của chương này gọi là “Tin Lành theo Giăng”.
You may be familiar with this man called Jesus and “his” story. You recognize it as one of the four gospels, or the four books that go into great detail about “good news”. To me, when you know the news is true, then the news is good even though it may be disappointing. We can take action about a situation when we know it is true, but when we do not know whether or not the news is true, then how can we decide what action to take?
Có lẽ bạn quen thuộc với người có tên Jesus và câu chuyện của “người”. Bạn sẽ nhận biết chuyện này khi một trong bốn sách phúc âm hay bốn sách kể chi tiết về “tin lành”. Đối với tôi, khi bạn biết tin thật, thì đó là tin lành dù tin có thất vọng. Chúng ta có thể hành động khi chúng ta biết tin thật, nhưng khi chúng ta không biết tin có thật hay không, thì làm thế nào chúng ta hành động?
If you are not a believer in this man named Jesus, then it is my hope that by having read this chapter you will be motivated to think about the “good news” of Jesus Christ. The Christians of this world have staked their entire lives on the message you have just read. And, this same message is for you and it demands a response from you too.Do you want to ignore the voice of one saying “good news”. If you desire to know more about this person named Jesus, please read a copy of the Holy Bible.
Nếu bạn không phải là người tin vào người có tên Jesus này, thì tôi hy vọng bạn đã đọc chương này và được thôi thúc suy nghĩ về “tin lành” của Chúa Jesus Christ. Những người Tin Lành trên thế giới này đã đóng cọc đời sống họ vào sứ điệp bạn vừa đọc và đây cũng là một sứ điệp cho bạn và bạn cần đáp lại sứ điệp này. Bạn có muốn bỏ qua tiếng nói “tin lành” không? Nếu bạn khao khát muốn biết thêm về người có tên Jesus,The Jesus Film-Vietnamese Language Part 1